Sau khi xem xét các loại thuốc mà bác sĩ Morell kê cho Hitler, một câu hỏi được đặt ra là tại sao mấy viên thuốc chống đầy hơi của bác sĩ Koester lại khiến các bác sĩ nghi ngờ?
Uống thuốc độc
Nguyên nhân có thể là do các viên thuốc của bác sĩ Koester có hộp đựng, có tên thuốc và thành phần (gồm cây long đờm, cây cà dược và chiết xuất cây nhục đậu khấu). Trong khi đó, các loại thuốc và mũi tiêm của bác sĩ Morell thì không tên tuổi và có phần bí ẩn.
Cây long đờm thì vô hại. Tuy nhiên, hai thành phần còn lại đều khiến người ta giật mình, đặc biệt là khi biết ngoài các viên thuốc khác, Hitler uống tới 20 viên thuốc chống đầy hơi mỗi ngày. Thậm chí, nếu bác sĩ Morell có đọc nhãn trên hộp thuốc thì ông cũng có thể không biết rằng nhục đậu khấu là một loại hạt chứa nhiều lượng strychnine - thường được sử dụng làm thành phần hoạt tính trong thuốc diệt chuột. Còn cây cà độc dược chứa chất atropine - một chất độc có thể gây kích động, rối loạn, ảo giác, hôn mê và tử vong nếu dùng liều lượng cao.
Không ai biết bác sĩ Morell tiêm cho Hitler thứ gì.
Chính vì hai thứ thành phần đó khiến bác sĩ Giesing giật mình khi nhìn thấy sáu viên thuốc đen trên khay bữa ăn sáng của Hitler sáng một ngày tháng 7/1944. Bác sĩ riêng của Hitler không hề biết là ông ta đã cho Hitler một liều lượng lớn hàng ngày hai loại chất độc chết người.
Sau đó, mọi người ai cũng nhìn thấy là tình trạng thể lực và trí lực của Hitler đang xuống dốc nghiêm trọng. Những cơn run rẩy không thể giấu được. Trí nhớ giảm sút. Hitler còn gặp khó khăn khi theo dõi một cuộc nói chuyện. Tâm trạng hắn thay đổi liên tục. Bác sĩ Giesing đặt ra câu hỏi liệu chất diệt chuột trong các viên thuốc chống đầy hơi có phải là nguyên nhân của một hoặc tất cả những triệu chứng trên. Ông đã tự mình uống thử vài viên thuốc và khi ông bắt đầu có một số triệu chứng giống Hitler như cáu kỉnh và đau quặn bụng, ông đã đưa ra giả thiết này với hai bác sĩ phẫu thuật của Hitler là Brandt và Von Hasselbach.
Ông Brandt và Von Hasselbach chưa bao giờ thích bác sĩ Morell và không tin tưởng năng lực của ông ta. Cũng giống như bác sĩ Giesing, họ lo ngại tình trạng sức khỏe của Hitler. Khi nghe ông Giesing trình bày, họ cho rằng đã có cơ hội để loại bỏ ông Morell và có thể chăm sóc Quốc trưởng một cách khoa học. Nhưng nếu họ nghĩ rằng sẽ dễ dàng loại bỏ ông Morell một khi chứng minh rằng ông ta bất tài thì họ đã nhầm to. Khi bác sĩ Brandt nói với Hitler thành phần viên thuốc mà hắn nuốt như kẹo hàng ngày, Quốc trưởng không chỉ bênh bác sĩ Morell mà còn sa thải cả ông Brandt và Von Hasselbach vì dám can thiệp vào việc của ông Morell. Hitler cũng nói với bác sĩ Giesing là không cần ông khám bệnh nữa.
Hitler trao bội tinh hiệp sĩ cho bác sĩ Morell năm 1944.
Thậm chí ngay cả ông Morell cũng ngạc nhiên khi biết rằng ông ta đã kê thuốc có thành phần diệt chuột cho Hitler. Thế nhưng, bản thân Hitler dường như không bận tâm. Hắn giải thích: “Bản thân tôi luôn luôn cho rằng đó chỉ là mấy viên thuốc để giảm khí trong đường ruột và tôi cảm thấy thoải mái hơn sau khi uống”.
Mặc dù trách nhiệm của bác sĩ Morell là theo dõi lượng thuốc Hitler uống nhưng Hitler lại phớt lờ hướng dẫn của bác sĩ là chỉ uống mỗi lần hai viên. Trước mỗi bữa ăn, Hitler uống tới 6 viên hoặc nhiều hơn. Nhà độc tài này không cho rằng mấy viên thuốc đó gây ra những cơn đau bụng vì hắn bị đau bụng như vậy từ bé.
Bây giờ, khi Hitler biết rằng mấy viên thuốc chống đầy hơi có khả năng gây nguy hiểm nên hắn không uống nhiều nữa. Thế nhưng, sức khỏe của hắn không cải thiện. Tình trạng suy kiệt thể chất và tinh thần không những tiếp tục mà còn trầm trọng hơn. Vậy đâu là nguyên nhân khiến Hitler kiệt quệ?
Mọi hoài nghi về sự an toàn của mấy viên thuốc chống đầy hơi được gạt bỏ khi vài viên được gửi tới phòng thí nghiệm để phân tích. Mấy viên thuốc này chỉ chứa một lượng nhỏ chất strychnine và atropine mà Hitler phải uống một lúc ít nhất 30 viên thì mới đủ liều lượng gây nguy hiểm tới sức khỏe. Trong khi đó, Hitler không bao giờ uống quá 6 viên mỗi lần và hơn 20 viên trong một ngày. Strychnine sẽ được cơ thể trung hòa nhanh chóng và không tích tụ. Do đó, các liều thuốc chứa strychnine được kê cho Hitler có thể uống hàng năm trời mà hầu như không bị ảnh hưởng gì.
Mũi tiêm bí ẩn
Tóm lại, cả thành phần diệt chuột hay vi khuẩn cấy từ phân người không làm cho Hitler khá hơn nhưng cũng không khiến sức khỏe hắn suy giảm hơn. Tuy nhiên, các mũi tiêm tĩnh mạch mà bác sĩ Morell thực hiện cho Hitler từ cuối những năm 1930 lại là một câu chuyện khác hẳn. Ông ta rất bí mật về thứ mà mình tiêm cho Hitler. Trong các bệnh án còn sót lại, không bao giờ thấy bác sĩ Morell nói thành phần khác của các mũi tiêm ngoài vitamin và glucose. Một số mũi tiêm thực ra có chứa vitamin và glucose nhưng không phải mũi nào cũng thế. Có bằng chứng đáng tin cho thấy nhiều mũi tiêm chứa những chất gì đó mạnh hơn. Và những chất này, chứ không phải là Mutaflor hay thuốc chống đầy hơi, đã khiến sức khỏe Hitler suy sụp giai đoạn cuối đời.
Một số bằng chứng thuyết phục là lời kể của người chứng kiến phản ứng của Hitler với những mũi tiêm vào tĩnh mạch. Cuối những năm 1930, các mũi tiêm không được tiêm thường xuyên nữa mà chỉ được tiêm trước khi Hitler chuẩn bị có một cuộc họp hoặc một bài phát biểu quan trọng. Tuy nhiên, cuối năm 1941, bác sĩ Morell tiêm cho Hitler mỗi sáng, thậm chí là trước khi hắn ra khỏi giường. Người hầu phòng, thư ký và các phụ tá thân cận thường nhìn thấy bác sĩ tiêm cho Hitler. Sau chiến tranh, họ đều mô tả Hitler cảm thấy buồn ngủ và có lần hoàn toàn kiệt sức ngay sau khi bị tiêm. Đôi khi, phản ứng này xảy ra khi mũi kim tiêm vẫn còn cắm vào cánh tay. Có lần, Quốc trưởng loạng choạng và không nói được lời nào. Ngay sau đó, hắn lại hoàn toàn tỉnh táo và ngồi bật dậy trên giường, nói chuyện vui vẻ với bất kỳ ai có mặt trong phòng. Vitamin và glucose thông thường không thể tạo ra một năng lượng ngay lập tức như Hitler đã trải qua, thậm chí là khi được tiêm thẳng vào tĩnh mạch.
Cuối năm 1944, bác sĩ này đã tiêm cho Hitler nhiều đến mức ông ta gặp khó khăn trong việc tìm chỗ để cắm mũi tiêm mới. Hitler ngày càng có khả năng chịu được những mũi tiêm, đến mức ông Morell đã phải tăng liều lượng mỗi mũi tiêm từ 2 cm3 lên 4 cm3, sau đó là 10 cm3, thậm chí 16 cm3 - tức là tăng 700% liều lượng - thì mới đủ hiệu quả với Hitler.
Như tiến sĩ Leonard Heston và Renate Heston chỉ rõ trong cuốn sách “The Medical Casebook of Adolf Hitler” (Hồ sơ bệnh án của Adolf Hitler), sức chịu đựng của con người với vitamin và glucose không thay đổi theo thời gian. Do đó, việc Hitler chịu được các mũi tiêm ngày càng tăng liều là bằng chứng cho thấy các mũi tiêm chứa một loại thuốc nào đó ngoài hai thứ trên.
Khi nghe lời kể của người chứng kiến phản ứng tức thì của Hitler với thuốc trong mũi tiêm, người ta có thể đoán loại thuốc đó là một loại thuốc kích thích thuộc nhóm amphetamine hoặc cocaine.
Người ta cho rằng bác sĩ Morell đã tiêm amphetamine cho Hitler.
Theo tác giả Heston, trong hai khả năng trên, amphetamine là “nghi can” số một vì amphetamine dạng tiêm rất sẵn có còn tiêm cocaine là bất hợp pháp. Ngoài ra, tác dụng của amphetamine kéo dài từ hai đến ba giờ, trong khi tác dụng của cocaine ngắn hơn. Trong thực tế, thời gian chịu tác dụng thuốc của Hitler tương đối dài.
Amphetamine giúp người dùng tăng năng lượng, cải thiện tâm trạng nhưng hiện nay loại thuốc này bị cấm vì chúng gây nghiện khủng khiếp và có quá nhiều tác dụng phụ gây suy nhược. Dù chỉ một lượng vừa phải, amphetamine cũng có thể gây chứng mất ngủ (tác dụng mà Hitler trải qua) và chán ăn. Khi liều tăng lên, số lượng phản ứng phụ cũng như cường độ cũng tăng. Tác dụng phụ về mặt tâm lý gồm phấn khích, cáu kỉnh, hoang tưởng, bốc đồng, mất kiểm soát cảm xúc, suy nghĩ cứng nhắc, ám ảnh với các chi tiết nhỏ nhặt. Vì những triệu chứng này khiến người dùng không có khả năng hiểu các sự kiện và bối cảnh xung quanh nên hay đưa ra các quyết định sai lầm.
Hitler chịu đựng tất cả các triệu chứng này. Theo lời các tướng của Hitler, suy nghĩ của hắn thực sự bị ảnh hưởng, không thể đưa ra các quyết định khôn ngoan, lý trí. Một số vị tướng còn cho rằng hắn đã mất trí.
Amphetamine đã khiến Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc sớm?
Một trong những lý do mà chiến tranh ở châu Âu kết thúc vào mùa xuân năm 1945, chứ không phải nhiều tháng và năm sau đó là: Ngay cả khi nước Đức đang ở thế bất lợi, Hitler vẫn yêu cầu các chỉ huy cố thủ để giữ từng cm mét đất mà họ đã chiếm được trên chiến trường, cho dù khi tình hình trở nên vô vọng. Ví dụ như cuối năm 1942, tướng Friedrich von Paulus, chỉ huy đơn vị lục quân số 6 đã xin phép rút binh sĩ khỏi thành phố Stalingrad của Liên Xô để tránh bị lực lượng Liên Xô mạnh hơn bao vây. Thời điểm đó, Hitler đang được tiêm hàng ngày. Hắn đáp lại một cách điên rồ rằng đơn vị lục quân số 6 có thể rút khỏi Stalingrad, miễn là vẫn có thể giữ được Stalingrad.
Không thể nghĩ ra cách nào vừa bỏ vị trí lại vừa giữ được vị trí đó cùng lúc, tướng Paulus tuân lệnh ở lại thành phố. Stalingrad bị bao vây vài tuần sau đó. Tháng 1/1943, đơn vị này đầu hàng. Có tới 800.000 binh sĩ phe Trục tử trận tại Stalingrad. Nếu Hitler cho phép rút quân thì hàng trăm nghìn binh sĩ Đức sẽ sống để có thể chiến đấu thêm một thời gian nữa và cuộc chiến có thể kéo dài hàng năm. Thay vào đó, trận Stalingrad lại là bước ngoặt cuộc chiến và là khởi đầu cho hồi kết của Đức quốc xã. Có thể nói, chính bác sĩ Morell và những liều amphetamine của ông ta đã giúp cho chiến tranh kết thúc sớm.
Ngoài tác dụng phụ về tâm lý do lạm dụng amphetamine, loại thuốc này còn gây ra một số tác dụng phụ khác như co giật, run rẩy, có những hành vi ép buộc như liên tục cấu hay cắn vào da mình. Với Hitler, hắn co giật, đầu giật mất kiểm soát, cơ thể run rẩy. Cơn run bắt đầu từ tay trái và lan xuống chân trái, rồi tay phải. Hắn thể hiện ít nhất hai loại hành vi điển hình: cắn vào da quanh móng tay và ngón tay cái, ngón tay trỏ và ngón tay giữa; cấu và cào da phía sau cổ cho đến khi bị nhiễm trùng.
Cơn run ở chân trái khiến Hitler không thể đi lại bình thường. Tuy nhiên, có cách giải thích khác cho dáng đi chậm chạp, lết chân, mất chức năng vận động trong thời gian cuối đời của Hitler. Lạm dụng amphetamine lâu năm gây tác hại khủng khiếp với hệ tim mạch và có thể gây đau tim và đột quỵ. Điện tâm đồ của Hitler tháng 7/1941 và tháng 9/1943 cho thấy chức năng tim của hắn suy giảm giữa hai thời gian này.
Trong số những tài liệu còn lại của bác sĩ Morell, có một bài viết trên một tạp chí y khoa tháng 6/1943 có thể cung cấp thêm một bằng chứng. Tên của bài viết là: “Cách chữa đau tim”. Sau đó, tháng 2/1945, tác giả Heston lại viết: “Hitler trải qua ít nhất một cơn đột quỵ nhẹ nhưng hắn có thể đã phải gặp nhiều cơn đột quỵ hơn. Trong thực tế, sức khỏe suy giảm từ sau lần đó cho thấy Hitler có dấu hiệu bệnh tim mạch. Việc một người đàn ông 56 tuổi khỏe mạnh vừa bị cả đau tim lẫn đột quỵ là điều rất khó xảy ra. Lời giải thích hợp lý nhất cho điều này là cả hai lần đều liên quan tới việc tiêm amphetamine vào tĩnh mạch”. Tháng 5/1945, Hitler gần với tử thần đến mức nếu hắn không tự tử thì cái chết cũng chỉ là vấn đề thời gian.
Bác sĩ Morell vẫn ở cạnh Hitler cho đến tận gần phút chót. Điều mỉa mai là nguyên nhân khiến Hitler bất đồng với bác sĩ lang băm Morell yêu quý chính là một mũi tiêm. Hitler đã quyết định ở nguyên trong boongke ở Berlin và tự tử trước khi thành phố rơi vào tay quân Liên Xô. Nhiều người trong số các nhân vật thân cận của Hitler muốn hắn trốn tới dãy núi ở miền nam nước Đức. Tại đây, hắn có thể chỉ huy nhóm tàn quân để cầm cự đến cùng.
Tuy nhiên, Hitler không nghe lời khuyên này của các phụ tá. Hắn quyết tâm chết ở thủ đô Berlin. Tuy nhiên, hắn sợ các cấp dưới sẽ đánh thuốc mê và đưa hắn ra khỏi Berlin trái ý. Còn ai có thể tiêm thuốc mê tốt hơn bác sĩ Morell? Khi bác sĩ này tới gặp Hitler ngày 21/4 với một xy lanh bơm đầy chất mà không ai biết là cái gì, có thể là thêm amphetamine, ông đã gặp một Hitler nổi điên và bị hắn sa thải ngay tại chỗ. Bác sĩ Morell không bận tâm tới chuyện đó. Lúc này, bom đã dội lên trên boongke suốt ngày đêm và bác sĩ Morell đang tuyệt vọng tìm cớ để ra khỏi boongke.
Ông Morell ra được khỏi Berlin và sống sót sau chiến tranh. Nhưng không lâu sau, chỉ vài ngày trốn khỏi thành phố, ông ta đã phải nhập viện vì có vấn đề về tim. Ngày 17/7/1945, ông ta bị người Mỹ bắt và bỏ tù. Sau khi các điều tra viên xác định rằng ông Morell không phạm bất kỳ tội ác chiến tranh nào, ông ta đã được thả. Sức khỏe của ông Morell tiếp tục xấu đi. Đến tháng 6/1947, ông ta lại phải trở lại bệnh viện và nằm liệt giường đến tháng 5/1948 thì chết sau khi bị đột quỵ.
Theo Thuỳ Dương
Báo Tin tức
Nguồn: Dantri