Lê Đại Anh Kiệt
41 năm qua nên tôi không nhớ chính xác thời gian trận đánh, chỉ nhớ đó là khoảng tháng 4-78 sau 32 ngày đêm phòng thủ Măng Đa (thị trấn Vĩnh Hưng bây giờ). Lần ấy, tiểu đoàn 1 chúng tôi kiên cường đối đầu với 1 trung đoàn Ponpot bao vây với hỏa lực rất mạnh, pháo 130 ly, 105, DKZ 82,75 bắn như bảo lửa. Từ trận đánh này tiểu đoàn được phong danh hiệu anh hùng lần thứ hai. Cái giá cho danh hiệu ấy không rẻ chút nào.
Bây giờ ngẫm lại mới thấy rùng mình, còn lúc đó thì "tuy lớn rồi mà như ngây thơ" cứ cười với nhau hồn nhiên "má Miên không khóc thì má mình khóc!". Ngày phòng thủ, đêm lòn ra sau phòng tuyến của địch tập kích đánh tiêu hao làm rối đội hình ở Bàu Sen, Gò Chuối, Gò Bà Sáu ...
Hy sinh, bị thương, đào ngũ, quân số càng lúc càng thưa dần. Những ngày cuối, tiều đoàn tung trận tập kích vét túi đánh ở gần Vàm Láng Đao, vừa hy sinh vừa bị thương 11 đứa. Khi tàn trận rút ra kênh 28 chỉ còn mấy mống lành lặn cỏng dìu thương binh nặng. Thương binh nhẹ phải cố tự đi. Đạt, tiểu đôi trưởng tiểu đội 1 mặc cái áo gắn đạn M 79 trúng quả B 40 chết tan xác không còn cái gì có thể mang về. Cây M 79 của nó lổ chỗ vết miểng đạn và thit xương, tôi mang xuống kinh rửa, cá lòng tong, cá chốt bu đầy.
Điệp, Tiểu đội trưởng tiểu đội 2 bị thương bấy hết mình mẩy, gom hết băng cá nhân của đơn vị mới đủ băng cho nó.
Đường từ kinh 28 ra trạm xá Bô Chỉ Huy Tiền Phương ở Bình Châu không an toàn nên phải cử một tiều đội đi bảo vệ đoàn xuồng chở thương binh. Trên đường đi đá trái bị thương thêm 2 chú. Ngay đêm sau đó, Ba Khánh, Hai Yêm, hai trung đội trưởng dày dạn kinh nghiệm đào ngũ. Đại đội tôi (đại đội 4) sáp nhập với đại đội 1 nhưng quân số chưa nấu ngọt nồi canh. Ban chỉ huy đại đội ghép lại đủ ba người. Đại đội trưởng Tư Đủng của tôi và Chính trị viên Năm Huệ, Đại đội phó Hai Yên của Đãi đội 1 cũ.
Có chuyện vui về quân số tiểu đoàn từ cánh thông tin truyền ra. Sau khi giải tỏa Măng Đa, thông tin tiểu đoàn báo cáo quân số về cho Bộ Chỉ huy Tiền Phương bằng mật mã. Đại bàng Tư Ấp, Chỉ Huy trưởng Tiền Phương không tin số liệu này, nghi là thông tin giải mã sai nên goi điện trực tiếp xuống Tiểu đoàn gặp chú Tám Lù, Tiểu đoàn trưởng với sức nóng 1000 độ của nhà quân sự. "Tao Tư Ấp nè, Không có Đống đa Bắc Bình con mẹ gì hết, cho tao gặp Tám Lù" "Tám Lù, tụi nó nói quân số của mày còn có 11 tay súng đúng không?" "Dạ đúng anh Tư. Đánh suốt cả tháng nay đâu có bổ sung. Đạn còn thiếu mà!"Hy sinh, bị thương, đào ngũ, quân số càng lúc càng thưa dần. Những ngày cuối, tiều đoàn tung trận tập kích vét túi đánh ở gần Vàm Láng Đao, vừa hy sinh vừa bị thương 11 đứa. Khi tàn trận rút ra kênh 28 chỉ còn mấy mống lành lặn cỏng dìu thương binh nặng. Thương binh nhẹ phải cố tự đi. Đạt, tiểu đôi trưởng tiểu đội 1 mặc cái áo gắn đạn M 79 trúng quả B 40 chết tan xác không còn cái gì có thể mang về. Cây M 79 của nó lổ chỗ vết miểng đạn và thit xương, tôi mang xuống kinh rửa, cá lòng tong, cá chốt bu đầy.
Điệp, Tiểu đội trưởng tiểu đội 2 bị thương bấy hết mình mẩy, gom hết băng cá nhân của đơn vị mới đủ băng cho nó.
Đường từ kinh 28 ra trạm xá Bô Chỉ Huy Tiền Phương ở Bình Châu không an toàn nên phải cử một tiều đội đi bảo vệ đoàn xuồng chở thương binh. Trên đường đi đá trái bị thương thêm 2 chú. Ngay đêm sau đó, Ba Khánh, Hai Yêm, hai trung đội trưởng dày dạn kinh nghiệm đào ngũ. Đại đội tôi (đại đội 4) sáp nhập với đại đội 1 nhưng quân số chưa nấu ngọt nồi canh. Ban chỉ huy đại đội ghép lại đủ ba người. Đại đội trưởng Tư Đủng của tôi và Chính trị viên Năm Huệ, Đại đội phó Hai Yên của Đãi đội 1 cũ.
Thực hư giai thoại này và con số chính xác của tiểu doàn thì binh bét như tôi không biết đươc nhưng ngay ngày hôm sau đơn vị đươc bổ sung quân. Riêng tôi đươc bổ sung ba chú chưa trang bị quân phục còn mặc áo thường dân. Mở ngoặc nói thêm toi là xa thủ cối 60 của đại đội. Khẩu đội trưởng là anh Chín Lít, nhưng lúc này anh không đươc khỏe nên tôi làm quyền đội trưởng, sau đó là Rân từ đại đội 1 nhập về.
Hỏi han ba chú tân binh thì mới biết là chưa được học quân sự ngày nào, được kêu đi khám sức khỏe NVQS rồi chở thẳng lên đây. Với kiến thức quân sự chưa đây lá mít, học chưa đủ ba tháng quân trường, chưa bắn đạn thật, chưa qua lăn lê bò toài đã được điều lên biên giới, không khá hơn các tân binh bao nhiêu ngoài kinh nghiệm chiến trường.
Tôi phát cho mỗi em 15 trái đạn và huấn luyện tân binh tóm tắt trong 15 phút. "Đây là trái đạn cối. Đầu đạn có chụp bảo vệ an toàn và cái chốt bằng dây kẻm. Khi nào anh kêu đạn, các chú rút chốt đưa đạn cho anh". Ngay chiều hôm đó Tiều đoàn tôi được lệnh hành quân lên Thái Trị giải tỏa, tái chiếm căn cứ củ sư 8 đã rơi vào tay pot.
Lính là phải chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của cấp trên, huống chi lính TĐ 1 anh hùng với slogan "điều đâu đi đó, đi đâu đánh đó, đánh đâu thắng đó" tụi tôi hành quân nhưng trong đầu cứ lăn tăng câu hỏi "làm sao 1 tiễu đoàn nhất là trong tình trạng thiếu hụt quân số như chúng tôi lại có thể đi giải tỏa căn cứ của sư đoàn.
Khi mấy chiếc võ lải đưa quân vượt qua ngã tư Lò Gạch,cặp bờ kênh 28 để chúng tôi lên bộ hành quân về điểm tập kết thì câu hỏi ấy càng rõ rệt hơn. Đi ngược hướng với toán quân thưa thớt mệt mỏi của chúng tôi là một giòng người đông đen kinh kịt mắc quân phục mới toanh và trên cánh tay người nào cũng mang giải băng màu trắng. Hóa ra đó là các đơn vị sư 8 được rút về tuyến sau còn chúng tôi phải đi giải tỏa căn cứ cho họ. Nhìn giải băng trắng trên tay làm ám tín hiệu nhận diện nhau, thằng Chiếu "Nhá" cùng là xạ thủ như tôi được điều ra làm tiểu đội trưởng vốn trực tính đã độp liền "Đánh chác mẹ gì kỳ vậy. Ám tín hiệu lộ chàm vàm, cách xa 50mét cũng thấy dễ làm mục tiêu cho Miên yếu lĩnh".
Nó nói có lý nhưng nhìn đoàn quân đông đảo gấp vài chục lần quân số của chúng tôi, đứa nào cũng băn khoăn. Miên ở đây mạnh tới cở nào? Bạn đông cở đó còn bỏ cứ, chúng mình loe ngoe làm sao chiếm được?
Tới điểm tập kết, nghe mệnh lệnh hành quân và kế hoạch tác chiến thắc mắc đó phần nào được giải tỏa. Mục tiêu là căn cứ của cấp trung đoàn của sư 8. Đây là đơn vị vừa làm nhiệm vụ kinh tế vừa sẳn sàng chiến đấu, không quen đánh giặc nên vừa tấn công đã bỏ trận địa. Trận đánh được tăng cường đại đội thiết giáp của tỉnh đội. Tiểu đoàn 1 tập kích vào chính diện, thiết giáp sẽ đánh vu hồi lướt sườn và tập hậu. Biết tâm lý linh tráng quá mỏi mệt sau hơn một tháng dài nằm chốt bị vây hảm, đạn phải vét mót, thuốc lá phải gom tàn bỏ vào lon nhựa để hút lại, anh Thành Út Tiểu đoàn phó nhấn mạnh. "Trận này ta đánh tập kích, chiếm cứ xong giao cho du kích chốt".
Lần đầu tiên được phôí hợp với thiết giáp của ta nhưng đã mấy lần đối đầu với thiết giáp của Pot, biết rõ sức mạnh hỏa lực của nó nên chúng tôi cũng thấy ấm lưng.
Trận này anh 5 Huệ bệnh không tham gia, anh 4 Đủng và 2 Yên mỗi người phụ trách một mủi bộ binh. Khẩu cối của tôi phải tự thân vận động.
Trận đánh diễn ra suông sẽ như kế hoạch. Bài bản đánh tập kích đã thành sở trường của tiểu đoàn. Nữa đêm áp sát vào mục tiêu, mờ sáng pháo binh dọn đường và bộ binh xung phong. Thiết giáp phối hợp khá tốt vận động nhanh, hỏa lực mạnh nên bọn Pot nhanh chóng vỡ trận tháo chạy. Chúng tôi lần đầu tiên thu được phân nửa khẩu trong liên 12ly 8. Bọn Pot chỉ kịp mang phần thân và nòng súng, bỏ lại chân và giá súng.
Riêng tôi phát hiện ra cái tai hại bài huấn luyện tân binh quá non nớt của mình. Ba tên lính mới đứa nào cũng muốn mau hết đạn cho nhẹ nên khi xung phong. mỗi lần tôi dừng lại giá súng thì cả ba cùng cụm theo tôi. cùng đưa đạn không biết phải lấy của đứa nào. Điều quan trọng là theo luật của chiến trường, hỏa điểm phân tán, hỏa lực tập trung, khi cối ta nổ súng thì đương nhiên địch sẽ tập trung tiêu diệt, cả 4 người cụm lại rất dễ chết chùm
Tôi đặt cho mỗi chú một số thứ tự và quy ước khi dừng lại lần thứ nhất, chú số 1 đến gần tôi tiếp đạn, hai chú còn lại phải tản ra cứ luân phiên lần kế sẽ là chú thứ 2. Đặt lệ như vậy nhưng lính mới tò te ra trận đầu lạnh giò cứ cụm lại với nhau phải hò hét đã đời.
Chiếm xong căn cứ tưởng đã hoàn thành nhiệm vụ. Lại có lệnh trên đại đội tôi phải tấn công mục tiêu mới là một bờ kinh cách căn cứ vài cây số. Lực lượng địch còn ém lại ở đây chừng 1 trung đội. Lần này chúng tôi tấn công đơn độc, không có thiết giáp phối hơp. Đồng tháp 10 tháng tư khô khốc, không một ngọn cây ngọn cỏ che chắn, tập kích ban ngày chúng tôi sẽ thành bia sống để bon Pot nấp sau bờ kinh tha hồ yếu lĩnh. Nếu Pot cứng cựa, không cần 1 trung đội, chỉ 1 tiểu đội thôi cũng đủ thịt chúng tôi.
Tại sao không nán cho chúng tôi thêm vài ba tiếng nửa, tập kích vào ban đêm sẽ thuận lợi và đở thương vong hơn nhiều?
Nhưng là lính thì phải chấp hành. Chúng tôi lại hành quân vài chục người lính phơi thân trần giữa cánh đồng trống hoác. Anh Chín Lít lúc này đã khỏe nên tham gia, đây là điều may mắn cho đơn vị mà không ai ngờ tói.
Cách bờ kinh chừng 400 m chúng tôi tản hàng ngang, Pot vẫn chưa nổ súng có lẽ chúng không muốn lộ đội hình và chờ chúng tôi đến gần hơn. Tới khoảng 200 m, Pot bắn rát. Lính nằm rạp, anh Tư Đủng gọi pháo 105 và cối 60 chúng tôi cũng nổ. Anh Chín Lít nhiều kinh nghiệm, đươc anh em tin cậy nên cối, pháo vừa khai hỏa là bộ binh chồm lên xung phong với tốc độ rất nhanh. Bọn Pot bị hỏa lực dập bất ngờ nên chùng xuống và đại đội đã tận dung khoảnh khắc ấy áp sát. Cách bờ kinh hơn 100 m thì một chú tân binh vướng trái gài gục ngã sau tiếng nổ long trời. Theo phản xạ, đang xung phong vuóng trái ai cũng lạnh giò nhưng chúng tôi không có thời gian để sợ, hoặc chiếm dược bờ kinh hoặc chết, tất cả cùng tiến lên chỉ có Quân Y tá từ tuyến trên chạy tới chăm sóc thương binh.
Kinh nghiệm nhiều lần cho thấy lính Pot chịu cực đánh dai, đánh nhây nhưng không lỳ. Khi bị áp sát là bỏ chạy dù quân số đông hơn. Lần này cũng vậy, chúng bung chạy đen đồng trước sự liều mạng áp sát của chúng tôi.
Chiếm được bờ kinh, bố trí dội hình phòng thủ xong thì anh Tư Đủng nhận lệnh từ cấp trên phải cắm cờ và cho nổ một quả lựu đạn giũa đội hình để cấp trên xác nhận là chúng tôi đã chiếm mục tiêu. Anh Tư Đủng vốn là lính Biệt Động Thành nên quen tác chiến một mình và chấp hành mệnh lệnh cấp trên tuyệt đối. Đến mức ngày đám cưới của anh đã được định trước từ lâu nhưng do đơn vị vô chiến dịch anh cũng không về mà nhờ người em họ đóng vai chú rễ, Lần này anh cũng chấp hành, ra lệnh cho trung đội 1 treo cờ và ném lựu đạn. Anh Chín Lít phản đổi dữ dội. Kinh nghiệm và lý lẽ của anh hoàn toàn thuyết phục mọi người. "Cắm cờ, ném lưu đạn cho cấp trên thấy thì Pot củng thấy. Giữa đồng trống, không có côn sự, Pot dập hỏa lực thì lấy gì mà đở!". Anh Tư Đủng giật mình trước lý lẽ đó nhưng quán tính kỹ luật vẫn thôi thúc. Anh chỉ tay lên trời gằn giọng vẽ nghiêm trọng. "Biết lệnh của ai không? Biết ai chỉ huy trận này không? Ông sáu Nam đó!". Tới lúc này tôi mới nhận ra là trên trời có tiếng tạch tè và có chiếc trực thăng đang quần đảo trên cao. Tời thời điểm đó tôi mới biét cấp trên cao nhất là Chú Tám Lù tiểu đoàn trưởng, không biết ông Sáu Nam là ai mà quan trọng tới anh Tư phải kính trọng như vậy.
Thằng Chiếu Nhá thì vẫn quen thói bộp chộp. "Ổng là ai kệ mẹ ỗng. Ra lệnh lạc như vậy là giết lính. Ở trên cao thiếu gì cách ổng nhận diện mình mà Pot không biết."
Cuối củng, anh Chín Lít cũng đưa ra cách xử lý tình huống. Cho một chú lẹ làng nhất chạy cách xa đội hình 200 m ném lưu đạn cắm cờ và ù té chạy về.
Quả đúng như vậy, cờ vừa cặm lên, lựu đạn nổ chưa tan khói thì cối, DKZ của Pot đã lập tức đổ lửa vô vị trí này. Chúng tôi thở phào. Thoát chết.
Anh Chín Lit phục viên với quân hàm hạ sĩ hiện vẫn còn sống ở công chào Tho Mo, xã Mỹ Quý Tây Đức Huệ,
Khi mấy chiếc võ lải đưa quân vượt qua ngã tư Lò Gạch,cặp bờ kênh 28 để chúng tôi lên bộ hành quân về điểm tập kết thì câu hỏi ấy càng rõ rệt hơn. Đi ngược hướng với toán quân thưa thớt mệt mỏi của chúng tôi là một giòng người đông đen kinh kịt mắc quân phục mới toanh và trên cánh tay người nào cũng mang giải băng màu trắng. Hóa ra đó là các đơn vị sư 8 được rút về tuyến sau còn chúng tôi phải đi giải tỏa căn cứ cho họ. Nhìn giải băng trắng trên tay làm ám tín hiệu nhận diện nhau, thằng Chiếu "Nhá" cùng là xạ thủ như tôi được điều ra làm tiểu đội trưởng vốn trực tính đã độp liền "Đánh chác mẹ gì kỳ vậy. Ám tín hiệu lộ chàm vàm, cách xa 50mét cũng thấy dễ làm mục tiêu cho Miên yếu lĩnh".
Nó nói có lý nhưng nhìn đoàn quân đông đảo gấp vài chục lần quân số của chúng tôi, đứa nào cũng băn khoăn. Miên ở đây mạnh tới cở nào? Bạn đông cở đó còn bỏ cứ, chúng mình loe ngoe làm sao chiếm được?
Tới điểm tập kết, nghe mệnh lệnh hành quân và kế hoạch tác chiến thắc mắc đó phần nào được giải tỏa. Mục tiêu là căn cứ của cấp trung đoàn của sư 8. Đây là đơn vị vừa làm nhiệm vụ kinh tế vừa sẳn sàng chiến đấu, không quen đánh giặc nên vừa tấn công đã bỏ trận địa. Trận đánh được tăng cường đại đội thiết giáp của tỉnh đội. Tiểu đoàn 1 tập kích vào chính diện, thiết giáp sẽ đánh vu hồi lướt sườn và tập hậu. Biết tâm lý linh tráng quá mỏi mệt sau hơn một tháng dài nằm chốt bị vây hảm, đạn phải vét mót, thuốc lá phải gom tàn bỏ vào lon nhựa để hút lại, anh Thành Út Tiểu đoàn phó nhấn mạnh. "Trận này ta đánh tập kích, chiếm cứ xong giao cho du kích chốt".
Lần đầu tiên được phôí hợp với thiết giáp của ta nhưng đã mấy lần đối đầu với thiết giáp của Pot, biết rõ sức mạnh hỏa lực của nó nên chúng tôi cũng thấy ấm lưng.
Trận này anh 5 Huệ bệnh không tham gia, anh 4 Đủng và 2 Yên mỗi người phụ trách một mủi bộ binh. Khẩu cối của tôi phải tự thân vận động.
Trận đánh diễn ra suông sẽ như kế hoạch. Bài bản đánh tập kích đã thành sở trường của tiểu đoàn. Nữa đêm áp sát vào mục tiêu, mờ sáng pháo binh dọn đường và bộ binh xung phong. Thiết giáp phối hợp khá tốt vận động nhanh, hỏa lực mạnh nên bọn Pot nhanh chóng vỡ trận tháo chạy. Chúng tôi lần đầu tiên thu được phân nửa khẩu trong liên 12ly 8. Bọn Pot chỉ kịp mang phần thân và nòng súng, bỏ lại chân và giá súng.
Riêng tôi phát hiện ra cái tai hại bài huấn luyện tân binh quá non nớt của mình. Ba tên lính mới đứa nào cũng muốn mau hết đạn cho nhẹ nên khi xung phong. mỗi lần tôi dừng lại giá súng thì cả ba cùng cụm theo tôi. cùng đưa đạn không biết phải lấy của đứa nào. Điều quan trọng là theo luật của chiến trường, hỏa điểm phân tán, hỏa lực tập trung, khi cối ta nổ súng thì đương nhiên địch sẽ tập trung tiêu diệt, cả 4 người cụm lại rất dễ chết chùm
Tôi đặt cho mỗi chú một số thứ tự và quy ước khi dừng lại lần thứ nhất, chú số 1 đến gần tôi tiếp đạn, hai chú còn lại phải tản ra cứ luân phiên lần kế sẽ là chú thứ 2. Đặt lệ như vậy nhưng lính mới tò te ra trận đầu lạnh giò cứ cụm lại với nhau phải hò hét đã đời.
Chiếm xong căn cứ tưởng đã hoàn thành nhiệm vụ. Lại có lệnh trên đại đội tôi phải tấn công mục tiêu mới là một bờ kinh cách căn cứ vài cây số. Lực lượng địch còn ém lại ở đây chừng 1 trung đội. Lần này chúng tôi tấn công đơn độc, không có thiết giáp phối hơp. Đồng tháp 10 tháng tư khô khốc, không một ngọn cây ngọn cỏ che chắn, tập kích ban ngày chúng tôi sẽ thành bia sống để bon Pot nấp sau bờ kinh tha hồ yếu lĩnh. Nếu Pot cứng cựa, không cần 1 trung đội, chỉ 1 tiểu đội thôi cũng đủ thịt chúng tôi.
Tại sao không nán cho chúng tôi thêm vài ba tiếng nửa, tập kích vào ban đêm sẽ thuận lợi và đở thương vong hơn nhiều?
Nhưng là lính thì phải chấp hành. Chúng tôi lại hành quân vài chục người lính phơi thân trần giữa cánh đồng trống hoác. Anh Chín Lít lúc này đã khỏe nên tham gia, đây là điều may mắn cho đơn vị mà không ai ngờ tói.
Cách bờ kinh chừng 400 m chúng tôi tản hàng ngang, Pot vẫn chưa nổ súng có lẽ chúng không muốn lộ đội hình và chờ chúng tôi đến gần hơn. Tới khoảng 200 m, Pot bắn rát. Lính nằm rạp, anh Tư Đủng gọi pháo 105 và cối 60 chúng tôi cũng nổ. Anh Chín Lít nhiều kinh nghiệm, đươc anh em tin cậy nên cối, pháo vừa khai hỏa là bộ binh chồm lên xung phong với tốc độ rất nhanh. Bọn Pot bị hỏa lực dập bất ngờ nên chùng xuống và đại đội đã tận dung khoảnh khắc ấy áp sát. Cách bờ kinh hơn 100 m thì một chú tân binh vướng trái gài gục ngã sau tiếng nổ long trời. Theo phản xạ, đang xung phong vuóng trái ai cũng lạnh giò nhưng chúng tôi không có thời gian để sợ, hoặc chiếm dược bờ kinh hoặc chết, tất cả cùng tiến lên chỉ có Quân Y tá từ tuyến trên chạy tới chăm sóc thương binh.
Kinh nghiệm nhiều lần cho thấy lính Pot chịu cực đánh dai, đánh nhây nhưng không lỳ. Khi bị áp sát là bỏ chạy dù quân số đông hơn. Lần này cũng vậy, chúng bung chạy đen đồng trước sự liều mạng áp sát của chúng tôi.
Chiếm được bờ kinh, bố trí dội hình phòng thủ xong thì anh Tư Đủng nhận lệnh từ cấp trên phải cắm cờ và cho nổ một quả lựu đạn giũa đội hình để cấp trên xác nhận là chúng tôi đã chiếm mục tiêu. Anh Tư Đủng vốn là lính Biệt Động Thành nên quen tác chiến một mình và chấp hành mệnh lệnh cấp trên tuyệt đối. Đến mức ngày đám cưới của anh đã được định trước từ lâu nhưng do đơn vị vô chiến dịch anh cũng không về mà nhờ người em họ đóng vai chú rễ, Lần này anh cũng chấp hành, ra lệnh cho trung đội 1 treo cờ và ném lựu đạn. Anh Chín Lít phản đổi dữ dội. Kinh nghiệm và lý lẽ của anh hoàn toàn thuyết phục mọi người. "Cắm cờ, ném lưu đạn cho cấp trên thấy thì Pot củng thấy. Giữa đồng trống, không có côn sự, Pot dập hỏa lực thì lấy gì mà đở!". Anh Tư Đủng giật mình trước lý lẽ đó nhưng quán tính kỹ luật vẫn thôi thúc. Anh chỉ tay lên trời gằn giọng vẽ nghiêm trọng. "Biết lệnh của ai không? Biết ai chỉ huy trận này không? Ông sáu Nam đó!". Tới lúc này tôi mới nhận ra là trên trời có tiếng tạch tè và có chiếc trực thăng đang quần đảo trên cao. Tời thời điểm đó tôi mới biét cấp trên cao nhất là Chú Tám Lù tiểu đoàn trưởng, không biết ông Sáu Nam là ai mà quan trọng tới anh Tư phải kính trọng như vậy.
Thằng Chiếu Nhá thì vẫn quen thói bộp chộp. "Ổng là ai kệ mẹ ỗng. Ra lệnh lạc như vậy là giết lính. Ở trên cao thiếu gì cách ổng nhận diện mình mà Pot không biết."
Cuối củng, anh Chín Lít cũng đưa ra cách xử lý tình huống. Cho một chú lẹ làng nhất chạy cách xa đội hình 200 m ném lưu đạn cắm cờ và ù té chạy về.
Quả đúng như vậy, cờ vừa cặm lên, lựu đạn nổ chưa tan khói thì cối, DKZ của Pot đã lập tức đổ lửa vô vị trí này. Chúng tôi thở phào. Thoát chết.
Anh Chín Lit phục viên với quân hàm hạ sĩ hiện vẫn còn sống ở công chào Tho Mo, xã Mỹ Quý Tây Đức Huệ,