"Chúng ta xin thề trước hương hồn của Tổ tiên ta, trước hương hồn của
cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa trước đồng bào cả nước,
xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc
thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa – một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta".
Đảo Trường Sa Lớn (lúc này có tên gọi là đảo Trường Sa). Tháng 5/1988.
Cổng chào và trạm gác ở ngay cầu cảng.
Đại tướng Lê Đức Anh và các sỹ quan trên đảo Trường Sa Lớn. Tháng 5/1988.
Đảo Trường Sa Lớn được giải phóng ngày 28/4/1975
Sau 8 tháng kể từ ngày đất nước thống nhất, trước yêu cầu khách quan về
nhà ở và hệ thống phòng thủ bảo vệ đảo, Bộ quốc phòng đã giao nhiệm vụ
cho Bộ tư lệnh Hải quân tiến hành khảo sát xây dựng các nhà kiên cố trên
quần đảo Trường Sa. Việc xây dựng phải bảo đảm 2 yếu tố cơ bản: Phải là
nơi phòng thủ kiên cố có tầm quan sát rộng, tiện cho cơ động sẵn sàng
chiến đấu và tránh nắng nóng; vừa tránh được ẩm thấp nước biển mặn, đón
được hướng gió, bảo đảm mọi sinh hoạt công tác, huấn luyện, vui chơi của
bộ đội. Nhận nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, cán bộ chiến sĩ Trung
đoàn 83 Công binh hải quân xác định “Dù khó khăn đến mấy, dù phải hi
sinh đến tính mạng cũng cũng phải xây dựng bằng được nhà kiên cố lâu bề
trên các cụm đảo Trường Sa, đó là mệnh lệnh từ trái tim người lính đối
với Tổ quốc nơi tuyến đầu”. Thế là hàng ngàn khối đá, xi măng, sắt thép
và vật liệu xây dựng được chuyển xuống tàu đưa ra đảo.
Chuyến tàu đầu tiên mang tên Đại Khánh do Đại úy Lê Nhật Cát, nguyên là
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 83 chỉ huy 70 cán bộ chiến sĩ
trẻ hành trình ra Trường Sa vào cuối tháng 4 năm 1976. Việc đi Trường Sa
ngày ấy đồng nghĩa với cuộc chia ly sinh tử. Bởi đất nước mới trải qua
chiến tranh, tàn tích đau thương chưa xóa nhòa, giờ lại phải ra Trường
Sa xây dựng đảo-một thử thách lớn đối với những người lính công binh
thời bình. Tàu Đại Khánh có trọng tải 75 tấn vượt sóng ra Trường Sa từ
cảng T thuộc Cam Ranh Phú Khánh (nay là Khánh Hòa) lúc chiều tối, sau
gần 4 ngày lênh đênh trên biển đã đến đảo Trường Sa Lớn. Gần 4 ngày vật
lộn với sóng gió, 80% cán bộ chiến sĩ bị say sóng, nhiều chiến sĩ trẻ bỏ
bữa. Hầu hết các chiến sĩ chưa biết Trường Sa là gì, chỉ hình dung
trong đầu đó là một hòn đảo xa xôi và thiêng liêng. Trong tim họ luôn
nghĩ, ra đảo Trường Sa để xây nhà là nhiệm vụ vinh quang, khí thế hừng
hực trong tim và không hề ngần ngại.
Đảo Trường Sa Lớn những ngày đầu sau giải phóng hoang sơ và ngổn ngang
đất đá. Tất cả công trình quân sự, nhà ở, hầm hào của quân đội Sài gòn
trước đây để lại hầu hết bị cày xới, tàn phá. Vài ngôi nhà cấp 4 còn lại
không có gì ngoài 4 bức tường mục nát, cháy xém.Dưới cái nắng như thiêu
như đốt, các chiến sĩ quần đùi áo lót ngày đêm vận chuyển vật liệu từ
tàu vào đảo trên đá san hô. Quân bình mỗi chiến sĩ vác 200 hòn đá mỗi
ngày. Ban ngày vận chuyển vật liệu, ban đêm đóng cọc dựng nhà che bạt ở
tạm, cốt để bộ đội có chỗ ăn cơm và ngủ lấy lại sức. Nắng gió rát mặt,
với chiếc mũ mềm sao vàng đỏ chói trên trên đầu, các chiến sĩ như những
con ong chăm chỉ người vác đá, người khiêng xi, người trộn hồ, tung
gạch. Sau gần một tháng thi công, ngôi nhà đầu tiên trên đảo Trường Sa
Lớn hoàn thành cuối tháng 5 năm 1976. Loại nhà "sê-ri” thế hệ đầu tiên
kết cấu nửa chìm nửa nổi, chiều cao 2,8 mét, trong đó 1,5 mét ẩn âm
trong lòng đảo, lòng nhà rộng 4,5 mét theo hình lục giác, có các cửa sổ,
tiện cơ động quan sát, hứng gió 4 phía.
Ngày 7 tháng 5 năm 1988, tại lễ kỷ niệm 33 năm ngày thành lập Hải quân
nhân dân, Đại tướng Lê Đức Anh, ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy
quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến thăm cán bộ, chiến sĩ
trên quần đảo Trường Sa.
Đại tướng biểu dương: “Hải quân đã tích cực, kiên trì thực hiện nghị
quyết của Bộ Chính trị, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng về bảo vệ quần đảo
Trường Sa. Mặc dù có nhiều khó khăn, song đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ
được giao”.Tại cuộc mít tinh ở đảo Trường Sa, Đại tướng phát biểu nhấn
mạnh: “Nhân kỷ niệm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo
chính của quần đảo Trường Sa, có mặt đông đủ các Tổng cục, các quân
chủng, đại biểu tỉnh Phú Khánh (nay là Phú Yên, Khánh Hoà), chúng ta xin
thề trước hương hồn của Tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến
sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa trước đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ
với các thế hệ mai sau: Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của
chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa – một phần lãnh thổ và
lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”.
Đô đốc Giáp Văn cương, Tư lệnh Quân chủng Hải quân độc diễn văn tại cuộc
mít tinh kỷ niệm ngày thành lập Quân chủng Hải quân tại Đảo Trường Sa,
ngày 7 tháng 5 năm 1988.
Mít tinh kỷ niệm Ngày truyền thống Quân chủng Hải Quân ở Trường Sa, ngày 7/5/1988.
Lời thề của người chiến sĩ hải quân vang dội đảo Trường sa
Trạm Khí tượng Trường Sa. Tháng 5/1988.
Vào các giờ 7 giờ, 10 giờ, 13 giờ, 16 giờ, 19 giờ, 22 giờ, 1 giờ trong
ngày, các thông tin về khí tượng và hải văn ở Trường Sa sẽ được gửi lên
Tổ chức khí tượng thế giới
Mã số của Trường Sa và của cả Việt Nam là 48. Mã số ấy được cả thế giới
thừa nhận và hàng ngày những thông tin của Trường Sa - Việt Nam được bạn
bè quốc tế sử dụng để góp phần làm nên bản tin dự báo thời tiết toàn
cầu.
Ca sỹ Anh Đào với cán bộ Trạm Khí tượng Thủy văn Trường Sa. Tháng 5/1988.
Từ trái: Đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh quân chủng Hải quân, Đại tướng
Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ quốc phòng, Thượng tá Phạm Sỹ Ta, Đảo trưởng
đảo Trường Sa thị sát đảo.
Nồi cơm độn khoai dưới nắm trưa gay gắt
Bữa cơm trên mâm pháo.
Những cán bộ chiến sỹ Tôi đã gặp ở Trường Sa, tháng 5/1988.
Đồng nghiệp của tôi trong chuyến đi Trường Sa tháng 5/1988.
Ca sỹ Anh Đào với các chiến sỹ đơn vị thông tin trên đảo Trường Sa.
Giây phút thư giãn vẫn sẵn sàng, cảnh giác.
Ảnh này chắc ở Trường Sa Lớn phía sau các chiến sĩ là một chiếc LST, HQ-501 hay HQ-503?
Giếng nước gần cổng chính Trường Sa Lớn, HQ-501 đang cập cạnh cầu cảng.
Đại tướng Lê Đức Anh, Đô đốc Giáp Văn Cương và tướng lĩnh sỹ quan bên cột mốc chủ quyền Trường Sa.
Ca sĩ Anh Đào bên cột mốc chủ quyền Trường Sa.
Ca sĩ Anh Đào và Thanh Thanh (ngồi) bên cột mốc chủ quyền Trường Sa.
Những chiếc xe tăng, pháo phòng không, pháo phản lực, sơn pháo...tập
trung ở Trường Sa Lớn cho thấy tính khẩn trương và căng thẳng của CQ-88
và thể hiện rõ tầm quan trong và sự quyết tâm bảo vệ thủ phủ của Trường
sa
Chiến sỹ lái xe PTS trên dảo Trường Sa Lớn.
Nhằm tăng cường khả năng xây dựng, bảo vệ Quần đảo Trường Sa - DK1, từ
năm 1987 Quân chủng Hải Quân được Bộ Tổng Tham mưu điều chuyển bổ sung
hàng chục xe tăng T54, K63-85, hàng chục khẩu súng pháo (chủ yếu là ĐKZ,
pháo 85mm và 37mm), tiếp nhận hàng chục tấn vũ khí, đạn. Năm 1988, Nhà
nước, Bộ Quốc phòng tiếp tục tăng cường vũ khí trang bị kỹ thuật cho Hải
quân như pháo D30, 122mm, 23mm, tên lửa phòng không, súng phóng lựu
AGF... để Quân chủng trang bị cho các đảo.
Tuy vậy xem qua ảnh của bác Thái chỉ thấy có T-34, K63-85 chứ không thấy chiếc T-54 nào.
Chiến sĩ xe tăng K63-85 luôn sẵn sàng để chiến đấu.
Các nhà báo, diễn viên trong chuyến ra công tác tại đảo Trường Sa Lớn,
tháng 5/1988. Từ trái sang phải: Nam ngồi đầu tiên, đội mũ trắng là anh
Phạm Đình Quát (Quốc doanh nhiếp ảnh Phú Khánh); nam ngồi cạnh, tóc dài
là cố Nhạc sĩ Xuân An (Sở VHTT Phú Khánh), nữ đứng sau, giữa Phạm Đình
Quát và Xuân An là ca sĩ Anh Đào; nữ đeo kính ngồi cạnh Xuân An là ca sĩ
Thanh Thanh. Cả 2 chị là ca sĩ của Đoàn Ca múa Hải Đăng (Phú Khánh);
Những người xung quanh là anh Nguyễn Viết Thái (đội mũ rộng vành, đứng
sau Ca sĩ Thanh Thanh - phóng viên ảnh kiêm viết, chuyên theo dõi mảng
Quân đội của Báo Phú Khánh) và các phóng viên của Tạp chí Hải quân, NXB
Quân đội, Xưởng phim Quân đội, Đài Truyền hình TP.HCM, Quốc doanh Chiếu
bóng Phú Khánh... và cán bộ Quân chủng Hải quân.
Một khẩu đội pháo D30
Mang thiết bị truyền tin mới được Liên Xô viện trợ ra đảo.
2
Đến thăm những người đã nằm xuống vì chủ quyền của Tổ quốc, không phải
lúc nào cũng có được những nén nhang thơm và bó hoa tươi. Nhưng xin các
anh hãy nhận ở chúng tôi lòng cảm phục và biết ơn về sự hy sinh của các
anh cho cuộc sống thanh bình của Đất nước.
Trong hai ảnh trên có thể nhìn thấy một phần sân bay Trường Sa ta bắt đầu làm từ năm 1978,
"Gánh hát" gồm cố nhạc sĩ Xuân An, ca sĩ Anh Đào, Thanh Thanh đi đến
từng chốt của đảo Trường Sa Lớn để biểu diễn phục vụ chiến sĩ.
Có lần tại một đơn vị ở đảo Trường Sa Lớn, Xuân An hát suốt 90 phút rồi
buông đàn nằm nghỉ. Các chiến sĩ trẻ nhao nhao: “Bố cứ vừa nằm vừa hát
tiếp đi. Chúng con quạt cho bố mát”. Một lúc sau, anh em ở đơn vị khác
kéo đến, miệng mời tay kéo Xuân An đến chỗ ở của họ... nằm hát tiếp.
Không có tình cảm sâu sắc và mãnh liệt, chắc Xuân An, cũng như Anh Đào,
Thanh Thanh, không thể hát khỏe như trong chuyến đi ấy. Hai chị còn
tranh thủ khâu vá cho chiến sĩ.
"Gánh hát" gồm cố nhạc sĩ Xuân An, ca sĩ Anh Đào, Thanh Thanh đi đến
từng chốt của đảo Trường Sa Lớn để biểu diễn phục vụ chiến sĩ.
Tháng tư năm 1988, máu vừa đổ ở vùng biển đảo Gạc Ma - Cô Lin - Len Đao,
đài, báo vừa đăng tải danh sách 74 người hy sinh, mất tích. Đoàn ca múa
Hải Đăng thông báo đi Trường Sa, nhiều ca sỹ lấy lý do con nhỏ, đau ốm
để thoái thác. Anh Đào nghĩ, chính lúc này là lúc bộ đội Trường Sa cần
nhiều nhất sự động viên, chia sẻ của của mọi người ở đất liền. Sau
chuyến đi năm 1984, Anh Đào vẫn mong được quay lại Trường Sa, về với
Trường Sa. Xin được đi Trường Sa, Anh Đào mua thật nhiều xoài, cà phê,
thuốc lá mang ra Trường Sa tặng chiến sỹ.
Tại đảo Trường Sa Lớn, có lần Anh Đào đang chỉnh lại trang phục ở phòng
riêng, chuẩn bị ra hát ở nơi biểu diễn cách đó chừng trăm mét, bỗng nghe
tiếng rên ở phòng bên. Chạy qua, Anh Đào thấy một anh đang nằm, sốt cao
lắm. Anh tên là Vinh, đảo phó, ra Trường Sa đã 4 năm, uống nước giếng
san hô nên nhiễm bệnh. Anh Đào lấy khăn dấp nước đắp cho anh, rồi ra hát
cho mọi người. Hát xong, chị chạy về, vừa quạt vừa hát cho anh Vinh.
Biết anh ở khu Bốn, Anh Đào hát bài “Giận thì giận, thương thì thương”
rồi “Người ơi người ở đừng về”, vừa hát vừa khóc…
Lên đảo, anh em chiến sỹ yêu cầu hát về vùng quê nào, Anh Đào, Thanh
Thanh và cố nhạc sĩ Xuân An hát về vùng quê đó. “Hát bao nhiêu cho chiến
sỹ Trường Sa, cũng chưa đủ, chưa xứng với tình cảm các anh dành mình.”
Anh Đào tâm sự. Khi lên đảo An Bang, Anh Đào bị xỉu vì say sóng, tỉnh
dậy thấy đang nằm trên miếng ván lót trên mấy can sắt. Còn đang váng
vất, Anh Đào giật mình khi thấy một anh đến ngồi cạnh chị, đưa tay xuống
dưới “giường”. Anh kéo ra một can màu trắng loại 5 lít đựng nước, pha
sữa cho chị. Ngày đó, tiêu chuẩn mỗi người trên đảo chỉ được 5 lít nước,
lại còn tiết kiệm mỗi người nửa lít để tưới cây bàng đầu tiên trồng
trên đảo…
Trái bàng vuông
Cây Phong ba trên đảo Trường sa
Trên đảo Trường Sa Lớn, sở dĩ sự phát triển của thực vật bậc cao rất
hạn chế bởi điều kiện thiên nhiên rất khắc nghiệt, đất cát san hô cằn
cỗi, nhiều tảng đá san hô lớn ngăn cản sự sống của cây xanh. Bởi vậy,
trước đây nếu tính cả đảo cũng chỉ có 2 cây Bàng vuông và một số
bụi Hếp.
Sau bảy lần khảo sát và tiến hành nghiên cứu điều tra cơ bản các
điều kiện sinh thái, trồng thử nghiệm một số loài cây trên Trường Sa
Lớn, đề tài phục hồi và phát triển cây xanh trên các đảo, với
Trường Sa lớn là trọng điểm của Viện Sinh thái và Tài nguyên
Sinh vật đã thành công tốt đẹp. Một số loài đã sinh trưởng bền vững như
Bàng biển, Tra biển, Bàng vuông, Mù u, Phong ba,…
Những năm đầu, nguồn cây giống phải nhập từ đất liền, thậm chí từ
thủ đô Hà Nội, để đến được với Trường Sa vô cùng gian khó.
Nhưng với sự chăm sóc có kỹ thuật và lòng nhiệt tình của chiến sỹ trên
đảo, các loài cây con đã nhanh chóng phát triển và trụ vững trên đảo qua
tất cả sự khắc nghiệt để màu xanh luôn xanh. Giờ đây ở Trường Sa Lớn đã
có thể tự túc nguồn cây giống bằng chính hạt cây các loài trên đảo được
gieo ươm và trồng tại chỗ.
Ca sĩ Anh Đào chụp ảnh bên cạnh đài quan sát Trường Sa Lớn.
Trên đài quan sát thường xuyên có ít nhất hai chiến sĩ trực, mỗi người một hướng.
Thang lên xuống được lồng trong một ống được làm bằng thân thùng phuy hàn nối với nhau.
Theo VAPUTIN (PARACELISLANDS.ASI)