Dam Bo
(Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương)
Phần III
Tiếng nói thống nhất và đa tạp
Mỗi tộc người đều độc đáo và có những tính cách riêng, về phương diện dân tộc học nhiều hơn là nhân chủng học. Các yếu tố khác nhau về địa lý chỉ làm biển đổi rất ít loại hình thể chất chủng tộc, nhìn chung đều giống nhau trên những nét lớn, song lại tạo nên những tính chất dân tộc học riêng biệt và định hướng sự phát triển của những tính chất ấy. Cách cấu tạo của vùng đất, những ngăn cách hay những lối đi qua, đã ảnh hưởng đến ngôn ngữ của những người bản địa, chia cách những người này, tạo thuận lợi cho sự tiếp xúc giữa những người khác.
Nghiên cứu so sánh tiếng nói của mỗi tộc người cho thấy những sự gần gũi khiến ta có thể giả định có một nền tảng duy nhất về cách biểu đạt. Từ đó phái sinh ra các phương ngữ tùy theo từng nơi chốn. Các phương ngữ đó là những thổ ngữ địa phương hơn là những ngôn ngữ khác biệt. Phải chăng ngôn ngữ mẹ là cái ngôn ngữ ddös pönddik [1] của Truyền thuyết, được nói thời kỳ còn ở biển? Người Tây Nguyên cho là như vậy. Chúng ta chỉ có thể có những giả thuyết. Song vẫn có một quan hệ họ hàng giữa các phương ngữ Tây Nguyên, họ hàng về âm thanh, từ vựng, cấu trúc, cách biểu đạt.
Bảng đối chiếu sau đây rất đáng chú ý về mặt này (xem bảng I) Nó gồm các từ thông thường thuộc các lĩnh vực khác nhau. Ðôi khi cách thức ghi từ che lấp một sự giống nhau về âm mà tai nghe có thể nhận ra.
Bảng I
Pháp Biat Stiêng Bana Mạ Srê Raglay Noang Giarai Êđê
Cá ka ka ka ka ka kan kan akan kan
Ngựa cheh pese öxeh aseh aseh alang alang aseh aseh
Gấu kao kou xögau jirkao jirkao krih krih jögau k gao
Chim chium xem sim sim chim chim chim chim
Bay m par par par par par par par par phiör
Ðồng kong kong kong kong kong kong kong kong kong
Vỡ chah pöchah böcah böcah böcah böcah pöchah m chah
Mẹ me me me me me ma ma ami ami
Thần Brah Yang Brah Yang Yang Yang Yang Yang Yang Yang
Những tên riêng của người, giống nhau ở nhiều tộc người, dù họ ở rất xa nhau, càng xác định sự thống nhất cội nguồn đó.
Việc xem xét từ vựng cho phép ta nhận ra, trên một nền tảng dường như là chung, những ảnh hưởng từ bên ngoài đến nhóm ngôn ngữ, một phía là từ người Khơme, phía khác từ người Chàm. "Ông chủ" trong tiếng Bana là gru, trong tiếng Srê là pogru; đấy chỉ là cách nói khác của kru trong tiếng Cămpuchia (đến lượt nó lại gần với guru của tiếng sanscrit). "Chim", Bana là xem, Srê là sim, Êđê là chim, Chàm là chim. "Bao", Chàm và Mã Lai là sarun, Srê là sömprung. "Cày", Srê là ngal, Chàm là lanal, Mã Lai là tangala. "Người", Srê là bönus, Chàm là man, Sanscrit là manus.
Các phương ngữ Tây Nguyên được xếp vào nhóm các ngôn ngữ Inđônêdiêng, trong đó có cả tiếng Java, Mã Lai. Chúng tôi cũng được nghe nói đến một phương ngữ, rất gần với tiếng Bana, được nói ở các đảo Nicobar.
Tiểu nhóm các phương ngữ Tây Nguyên cho phép ta nhận ra ở đấy một sự thống nhất trong các sự khác nhau của chúng. Các phương ngữ này có tính chất chung là dính kết và đa âm. Quả là một số lớn từ là đa âm, nhưng có những từ hai và ba âm, những từ gồm có một gốc và những phụ tố, cũng có những từ không thể tách rời.
Sự phong phú về âm khiến mọi việc phiên âm đều khó khăn; dường như không bao giờ có thể tìm ra đủ các nguyên âm trong chữ cái của chúng ta để ghi lại một cách thỏa đáng. Thay vì làm cho các chữ cái la-tinh mang nặng thêm các ký hiệu quá nhiều và xồm xoàm, gần đây người ta đã thỏa thuận chỉ dùng các ký hiệu phổ thông và thông dụng, đủ để viết các từ trái ngược nhau. Ở đây chúng tôi đã dùng cách la-tinh hóa đó để phiên âm các phương ngữ Tây Nguyên.
Không có giọng; ngữ điệu của giọng nói là tùy theo từng người và tương ứng với cả câu, giống như trong các ngôn ngữ châu Âu.
Tư duy Tây Nguyên là tư duy viễn đông; điều đó biểu hiện trong ngôn ngữ bằng tình trạng rất phong phú của các từ ngữ cụ thể, đặc biệt các từ ngữ nói về các hoạt động thường ngày, việc trồng trọt, các kỹ thuật, nhiều đến mức làm rối trí những người học các phương ngữ, và khiến cho diễn từ đạt đến một sự chuẩn xác đáng kinh ngạc. Với một từ "mang" duy nhất trong tiếng Pháp, người Tây Nguyên có đến một chục từ ngữ tùy theo chỗ ta mang bằng tay, trên vai, một mình hay cùng nhiều người khác, v.v. Và lắm khi ta phải dịch mỗi một từ ngữ đó bằng cả một câu nói vòng dài.
Các từ đa âm thường là các từ ghép. Cách cấu tạo chúng tuân theo những quy luật cố định, cho phép ta khi cần có thể tạo nên những từ mới nếu ta muốn làm cho ngôn ngữ được phong phú, chẳng hạn để du nhập một từ vựng khoa học mới. Các quy luật đó là chung cho các phương ngữ khác nhau. Hiện tượng này có thể thấy trong các ví dụ sau đây được chọn trong hai phương ngữ cố tình xa nhau:
Trong tiếng Bana, dar có nghĩa là "một vòng"; thêm tiền tố pö, trở thành pödar: "vây bọc lại"; trong tiếng Srê dar và pödar cũng có nghĩa hệt như vậy. Trong tiếng Bana, pö hay tö, đứng trước một động từ hành động có nghĩa là "làm cho"; như vậy ta có gan (đi qua) và pögan (đưa qua); kram (nhúng) và pökram (ném [xuống nước]); mut (vào) và tömut (đưa vào). Trong tiếng Srê cũng như vậy, chỉ có điều tiền tố có nghĩa là "làm cho" luôn là tö (đôi khi là tön hay tör do luật hài âm):gan (đi qua) và tögan (đưa qua), nyhöp (nhúng) và tönyhop (ném [xuống nước]); mut (vào) và tömut (đưa vào). Trong tiếng Giarai, người ta cũng nói gan và pögan; kram và pökram; mut và pömut.
Cách đo, giống nhau ở tất cả các tộc người, cho ta những khái niệm dân tộc học quý báu. Người Tây Nguyên không biết đến trọng lượng; họ chỉ tính các độ dài, các dung lượng, là những đơn vị đo lường duy nhất dùng trong trao đổi. ngay cả một con trâu cũng được tính theo độ dài bộ sừng của nó. Các đơn vị đo độ dài tương quan với cơ thể con người: từ bề ngang ngón tay cho đến sải tay, có không ít hơn mười lăm đơn vị "chính xác" được thông dụng (bàn tay, gang tay, khuỷu tay... và tất cả các đơn vị chia nhỏ của chúng).
Cách đo thời gian tương ứng với vị trí của mặt trời để tính các giờ ban ngày, với tiếng gà gáy để tính các giờ trong đêm, với hình thù mặt trăng để tính các ngày trong tháng.
Khoảng cách được tính bằng thời gian phải đi: làng ấy cách đây ba "đêm" đi, nghĩa là cách bốn ngày đường, vì người ta phải ngủ đường ba đêm.
Ðiều này đưa chúng ta đến chỗ nghiên cứu lối đánh số của người Tây Nguyên. Ta sẽ nhận thấy những sự khác nhau, nhiều lúc có vẻ không dung hòa được (xem bảng II).
Bảng II
Biat Stiêng Bana Mạ Srê Raglay Noang Giarai Êđê Chàm
1 muoi mui ming dul dul sa sa sa sa sa
2 bar bar bar bar bar dua dua dua dôa dua
3 pe pe peng pe pe klô klao klao tlao klau
4 puon puon puön puön puan pa pa pa pa pak
5 pram pram pödam pram pram lömü lömü röma ema limö
6 prau prau tödrou prô prau lönam lönam nam nam nam
7 pah pöh töpöh poh poh töjuh töjuh töjuh kjuh tijuh
8 pham p ham töhngam pham pham lapan dölpan sopan epan dalapan
9 chin sienh töxin sin sin salapan salapan duaröpan doapan salapan
10 djet djimat jit jêt jöt söpluh sôplu pluh pluh pluh
1000 r bau diban röbau röbu röbu r tu r tu röbao etuh ribau
Bảng III
Pháp Biat Stiêng Bana Mạ Srê Raglay Noang Giarai Êđê (Chàm)
một muoi mui ming dul dul sa sa sa sa sa nước dak dak dak daa daa ya ya ia
lửa ugn ugn unh pui ous pui pui apui pui apuei
thóc ba ba ba koe koe bödae pöde
lúa phe p hey phe phe phe brah brah breh braeh
cơm piang poi - por piöng piang por sei sei ase êsei
trống gor s ngör xögor högôr (I) söngör söngör sögör sögör hagör hgör hagör
chiêng tchign cheng xar (I) cing cing car sar car ching ching cin
lợn chör sur nhung sur sur un (I) bui bui un un
gà mái iar ir ir ir iar mönu (I) mönu mönu mönu m nu
vào lap lap mut mut mut tama tama mut eran
nuôi chiam tchim xiem siam siam rong (I) siam siam rong chiem rong ciam
mua r wat ruöt ruöt roat blei (I) roat roat ble bley
(I) Hai hình thức được sử dụng khác nhau
Bảng này cho thấy rõ có hai tiểu nhóm ngôn ngữ mà chúng ta có thể ngỡ là không thể quy làm một nếu chúng ta không biết mối quan hệ họ hàng gần gũi giữa các phương ngữ. Chúng ta còn nhận thấy một sự đồng nhất về cách biểu đạt trong mỗi tiểu nhóm: một bên là các phương ngữ Biat, Stiêng, Bana, Mạ, Srê; bên kia là các phương ngữ Raglay, Noang, Giarai, Êđê. Trên bảng, nhóm bên trái đã chịu ảnh hưởng Khơme càng rõ hơn khi ta càng đi về phía trái. Các phương ngữ ở phía phải, nhất là tiếng Raglay và Noang, chịu ảnh hưởng Chàm [2] . Mọi việc diễn ra cứ như một cái gốc nguyên thủy chung cho các phương ngữ Tây Nguyên đã được đổi khác đi tùy thuộc vào nơi về sau mỗi tộc người cư trú và theo những "tuyến năng lượng" của các dân tộc láng giềng phát triển hơn do đó gây ảnh hưởng, như những người Khơme hay Chàm.
Tiếp tục phân tích các phương ngữ, bây giờ chúng ta lập một bảng (xem bảng III) cố ý chọn các từ rất thông dụng. Những sự khác nhau mới lại nổi lên, buộc ta phải phân chia thành những tiểu nhóm nữa. Vấn đề các phương ngữ này đặt ra rất phức tạp; chúng ta không tìm cách rút gọn chúng đi, mà là khoanh vùng chúng lại.
Những sự khác nhau là gì? Ðôi khi chỉ là một vấn đề về nguyên âm, cái khung cốt các phụ âm đều giống nhau: như, "gạo" tiếng Raglay là brah và tiếng Giarai là breh; "gà mái" tiếng Srê là iar, tiếng Bana và Stiêng là ir. Hiện tượng này rất thường gặp; nó diễn ra thậm chí bên trong tộc người ở đó ta có thể nhận thấy các nguyên âm thay đổi từ làng này qua làng khác. Như ở vùng Srê, trong khi ở làng này nói â (a đóng) thì ở làng bên cạnh chỉ cách một giờ đi đường lại nói ö.
Ta cũng nhận thấy có sự chuyển động của các phụ âm, thường theo những quy luật cố định; như thóc trong tiếng Raglay là bödae, pöde trong tiếng Giarai; thường chuyển từ âm gió sang âm bật hơi: xögör (Bana), sögör (Srê), högör (Bana), hagör (Giarai), hgör (Êđê). Hai hình thức xögör và högör dùng trong tiếng Bana, cái đầu gần với nhóm Srê, cái sau gần với nhóm Êđê. Một số phụ âm rơi ra, một số tiền tố thêm vào, nhưng cái gốc vẫn nguyên.
Tuy nhiên còn có những hình thức không thể rút chung lại, như ous và pui (lửa). Ta có thể kết luận là có một sự du nhập từ bên ngoài, một phía là Khơme, phía kia là Chàm; nhưng người Tây Nguyên, trước khi một số người này Khơme hóa, một số người khác Chàm hóa, tất đã phải biết lửa. Có thể một hình thức xưa đã bị mất đi. Vấn đề vẫn còn nguyên vẹn.
Nghiên cứu Bảng III, ta nhận thấy lần này có ba nhóm ngôn ngữ (do nhóm từ Biat đến Srê được chia đôi ra): tiểu nhóm 1, gồm các phương ngữ Biat, Stiêng, Bana; tiểu nhóm 2, gồm các phương ngữ Mạ và Srê; nhóm 3, gồm các phương ngữ Raglay, Noang, Giarai và Êđê. Bên trong mỗi nhóm, ta còn có thể phân biệt ra những mối họ hàng gần nhau hơn: Biat và Stiêng, Raglay và Noang, Giarai và Êđê.
Nhiều phương ngữ có những hình thức lạ đến từ tiểu nhóm bên cạnh: "lửa" trong tiếng Mạ là pui, khiến nó giống với tiểu nhóm 3; "chiêng" trong tiếng Bana là cheng hay xar, hình thức sau giống với tiểu nhóm 3. Mut (vào) là một hình thức thấy có ở mỗi tiểu nhóm, ít nhất là trong một phương ngữ. Chứng tỏ trong khoa học nhân văn, không có những định luật chặt chẽ.
Chúng ta thấy có hai hình thức song song được sử dụng trong một phương ngữ, ấy là do hiện tượng có hai nguồn ảnh hưởng. Phương ngữ Srê đặc biệt phong phú những hình thức đôi như vậy (sur và un, iar và mönu,...), một cái giống với tiểu nhóm 1, cái kia giống với tiểu nhóm 3. Ðiều này tạo cho tiếng Srê một vị trí ưu tiên, trung gian giữa hai nhóm phương ngữ, và làm cho nó trở thành "hiện trường ngôn ngữ" nơi gặp gỡ và cân bằng các ảnh hưởng, vả chăng điều đó có tương quan với vị trí địa lý của những người Tây Nguyên nói tiếng Srê. Có thể điều đó cắt nghĩa vì sao phương ngữ Kơho được nhiều tộc người khác hiểu trong khi người Kơho không hiểu một phương ngữ nào khác. Ðấy là tính chất chung của tất cả các dân tộc có ngôn ngữ được hiểu ở nước ngoài và, do đó, chẳng hề cố gắng học một ngôn ngữ khác.
Sau khi đã nhìn tổng quát về cộng đồng các phương ngữ và phân tích những sự khác nhau giữa chúng, có thể đi đến ý tưởng tổng hợp sau đây: các tộc người gần nhau về mặt địa lý thì nói các phương ngữ gần nhau, những tộc người xa nhau về địa lý đôi khi lại xếp trong cùng một tiểu nhóm ngôn ngữ (Raglay và Êđê chẳng hạn), các vách ngăn giữa các tiểu nhóm đặc biệt không phân định ranh giới cho các loại hạng nhất thiết xa lạ với nhau. Các tiểu nhóm ấy không phải là một ngôn ngữ nguyên gốc. Do đó, dường như có thể giả định sự tồn tại của một ngôn ngữ nguyên gốc chung cho tất cả các tộc người. Ðến đây ta gặp lại kết luận của nghiên cứu chủ yếu mang tính dân tộc học đã làm trên kia. Cách cắt nghĩa theo truyền thống của người Tây Nguyên về "cội nguồn chung" của họ, như vậy là hoàn toàn có thể chấp nhận.
Các dòng chảy con ngườiTrong khi hát kể các truyền thuyết truyền thống, các truyện kể cổ xưa, người Tây Nguyên hình dung tổ tiên của họ là những nhà du hành vĩ đại. Vì những lý do gia đình, vì một mối quan hệ hôn nhân với một "người con trai của lục địa", họ rời bỏ quê hương ở phía "mặt trời mọc", băng qua biển cả và đi đến "xứ sở phía mặt trời lặn". Bao nhiêu bài ca đã ám chỉ đến cuộc vượt biển ấy! Như vậy tình trạng ở biển của họ đã khiến thuở ấy họ đã phải làm như vậy. Trước khi biết người Chàm, họ hẳn đã từng sử dụng chiếc thuyền độc mộc để đi lại ven biển và cả biển xa, nơi họ gặp cá voi.
Rồi đến cuộc di cư lớn để đến chiếm vùng lục địa là Ðông Dương ngày nay. Dường như trong nhiều thế kỷ, đã có những cuộc chuyển động quan trọng tiến sâu dần vào nội địa, lên chiếm vùng núi, vượt qua núi để đến cư trú trên những cao nguyên nằm ở phía bên kia, đi xuống khai phá những thung lũng màu mỡ. Việc định cư, trên một vùng đất riêng, của các nhóm sẽ trở thành những tộc người mang tính cách riêng, không chỉ diễn ra trong thời gian một thế hệ; đấy là dịp của những cuộc chuyển cư liên tục, thử nghiệm, thiên di, quay trở lại. Một khi các tộc người đã định cư, các cuộc di cư không vì thế mà ngừng lại, song qui mô nhỏ hơn; các cuộc đan chéo trộn lẫn các nhóm vào nhau và là nguồn gốc của các tộc người nhỏ "kiểu hỗn hợp" mà ta có một ví dụ ở người Noup mang tính chất của nhiều tộc người láng giềng. Ở ranh giới địa lý của một tộc người, ta thấy có những nhóm làng mang dáng vẻ trung gian.
Một tộc người đã định cư, những nhóm nhỏ người, bên trong tộc người đó vẫn còn đi tìm một vùng đất để trồng trọt, điều đó đòi hỏi nhiều chuyển động trước khi đứng lại tại chỗ. Cư dân vùng Drong-Klong, phía nam Ðà Lạt, di cư về hướng nam để tìm những vùng ruộng tốt hơn và lập nên năm làng Drong cách nơi xuất phát của họ sáu mươi cây số. Một truyền thuyết kể lại cuộc di cư này theo cách huyền thoại và thơ mộng. Rồi các thành viên của những làng Drong này, trở nên quá đông, đất có thể làm ruộng nước không còn đủ, lại di cư tiếp về phương nam để tìm đất làm rẫy. Ðể làm việc đó, họ vượt qua vòng núi và đổ xuống trên một cao nguyên. Hiện nay họ làm thành một tiểu nhóm người Srê gọi là Rölöm.
Các tộc người chỉ làm rẫy di chuyển trong một chu vi nào đó trong năm, mười hay mười lăm năm, để tìm đất mới khai phá và trồng trọt; như người Mạ và người Raglay. Các bản đồ những vùng ấy cứ năm này sang năm khác lại sai đi: các làng thay đổi; các con đương đổi khác, những con đường mới được vạch ra, những con đường cũ bị xóa đi. Tùy theo chỗ các tộc người làm rẫy hay làm ruộng ở chỗ bằng mà các làng thành ra phân tán hay cụm lại.
Các tộc người đã định cư trong xứ sở như vậy không vì thế mà trở thành cô lập hẳn với nhau. Có những dòng chảy theo mùa - các cuộc du hành theo đúng hạn hay bất ngờ - đi thăm viếng bè bạn, cưới xin - tiếp tục trộn lẫn và nhào trộn các dân tộc này.
Dưới nền đô hộ của người Việt, mỗi năm một lần người Tây Nguyên đi xuống biển, vùng duyên hải. Ðấy là dịp đi đóng thuế; họ nhân thể mua bán. Ðến mùa khô, vụ thu hoạch xong, mọi người, gùi đeo trên lưng, lên đường, cả gia đình, đàn ông, đàn bà, trẻ con. Họ đi đến vùng người Mạ, người Srê, người Raglay... Họ mang theo những tấm chăn, da thú vật, heo, mà họ sẽ đổi lấy quần áo, muối, ché. Họ đi theo những con đường truyền thống xuyên qua vùng Tây Nguyên từ Tây-Bắc xuống Ðông-Nam, vượt qua núi, men theo các đỉnh, đổ xuống đồng bằng và cuối cùng đến Phan Thiết, hoặc Phan Rang, hoặc Nha Trang, ở xứ Việt. Ðấy là những con đường lớn của một thời, "con đường của các thủ lĩnh", gung Böjai (đường đi Phan Thiết), gung Phöri (đường Phan Rí).
Các cuộc du hành dài có khi kéo đến nhiều tuần, vì mang nặng, ấy là những dịp vui thú, mà những người Tây Nguyên ngày nay kể lại một cách thích thú, thăm viếng, trao đổi với các tộc người gặp dọc đường. Ta có thể hình dung phần nào không khí hồi bấy giờ, qua những câu chuyện kể truyền thuyết ca ngợi các cuộc du hành ngày xưa đó.
Như bài thơ Mạ sau đây, cũng rất phổ biến ở vùng người Srê:
"Thuở bấy giờ những người láng giềng của chúng ta, các thủ lĩnh Cămpuchia và các thủ lĩnh Lào tranh giành quyền lực với nhau. Họ ganh đua nhau xem ai giàu hơn ai, về chiêng về trống; họ đối xử bạo ngược với những người nghèo. "Sörli và Sun rời làng - ở tít tận phía Ðông-Bắc xứ người Mạ - đi xuống phía ven biển. Họ ăn mặc rất đẹp. Họ mang theo bao nhiêu thứ đẹp để đổi lấy muối và cá của người Việt; họ mang nào gỗ thông, nào ngà voi, nào tấm chăn, tất cả đều là hàng hóa có nhiều giá trị; họ dắt theo một con dê to. Trên đường đi về phía biển, họ đi qua những làng ở đó đàn ông, đàn bà đi theo họ, mang theo những gùi gạo, những tấm chăn do họ dệt. Ðoàn người lúc đầu còn ít cứ qua mỗi làng gặp trên con đường Phöri lại đông dần lên. "Họ đi đến con suối có "nước biết đánh nhạc", một ngọn thác nơi nước rót lên một mảnh tre vang lên âm thanh giống như mboat [3] , nghe hay đến nỗi mọi người đi qua đều dừng lại, mê mẩn vì tiếng nhạc của nước. Plöm, thủ lĩnh làng Kon-Yaê, Tom, thủ lĩnh làng Kon-Tach, đi trước; họ đập vỡ nhạc nước ở ngọn thác du dương, thác Löyang Köjong; họ làm bẩn nước khiến đến ngày nay nước không còn hát nữa. Ðoàn người đi theo họ, sau khi đã dừng lại qua đêm ở đó. "Cuộc đi rất vui, rất nhiều phụ nữ đi mua đồ trang sức. Những người trai trẻ đùa giỡn với họ. Một nàng nói với Sörli: - Nếu anh muốn chúng ta sống với nhau, thì đến "chợ lớn" anh tìm cho em một chiếc váy thật rộng, em rất thích một chiếc váy như thế; một tấm chăn thêu, em thích lắm; một tấm chăn màu xanh, rồi lụa nữa, em sẽ mừng lắm. - Vậy thì chúng ta cùng đi, Sörli trả lời. Khi trở về nhà, em sẽ làm việc ở nhà anh, em sẽ nuôi heo và heo sẽ béo lên; chúng ta sẽ mua thêm nhiều heo nữa ở làng Kon-Hin, làng Bösrê, làng Köyan, ơi em gái của anh. Ta đi cùng em, cô em gái nhỏ, ta đi xuống biển, và ta mặc áo quần thật đẹp vì em. Ta sẽ cúng thần, ơi em; ta rưới máu gà máu dê trên mặt đất. Trong ba tháng nữa, sẽ là lúc chúng ta đang cùng nhau làm ruộng, ơi em gái, trong bốn tháng nữa chúng ta đã xong. Trong chín tháng nữa chúng ta sẽ làm một căn nhà sàn cho hai ta, ơi em, trong mười tháng nữa chúng ta sẽ sống ở đấy cùng nhau, ơi em gái. - Anh hãy đi trước để chuẩn bị mọi thứ; em là con gái, em đi sau, và gùi của em rất nặng. Em là em gái của anh, em mang nồi cám đun nuôi con lợn trên đường để anh đem bán ở chợ. Anh hãy đi tìm dây rừng để trói con lợn đi, tìm những dây mây thật đẹp, những dây leo thật chắc. - Ta sắp đến nơi rồi đây, ơi em. Chúng ta sẽ ngủ lại đây đêm nay, chúng ta sẽ ngủ bên bờ nước, ơi em. "Ðến chợ, họ mua đủ mọi thứ cần thiết; họ mua bát, cúc áo mạ vàng, quần áo đẹp. Ðêm trở về đã đến: "Chẳng còn bao đêm nữa, ơi em; bây giờ là lúc phải trở về. Hãy mang gùi lên và trở về, ơi em. Ta nhớ mẹ ta, ở trên kia; ta muốn thấy em gái ta ở quê. Hãy trở về nhà, nơi ta sẽ đón em, ơi em gái".
Người Tây Nguyên mới biết đến bạc, tiền trong thời gian gần đây. Ngày xưa, ngay cả thuế cũng được đóng bằng hiện vật (da súc vật, lợn, v.v.) Mọi việc mua bán, ngay đến hiện nay vẫn vậy, đều tiến hành bằng trao đổi.
Mùa khô, giữa vụ thu hoạch và thời kỳ đốt rẫy, là thời gian lý tưởng cho các cuộc du hành, đi xuống vùng duyên hải hàng năm, những cuộc đi liên miên đến các tộc người khác để đổi chác. Ngày xưa người Tây Nguyên, được tự do hơn, tìm cách sản xuất thừa: họ có thời gian và phương tiện. Bằng cách đó họ kiếm được những sản phẩm mà họ thiếu. Họ đi lại tự do, trao đổi những gì họ muốn, ở nơi họ muốn. Việc mua bán diễn ra vui vẻ, thuận hòa.
Các tộc người giàu thóc gạo cố sản xuất thừa để đem đến vùng người Mạ đổi lấy những tấm chăn và quần áo vải bông; ngà voi, ché, chiêng thì đổi tận bên Cămpuchia. Những tộc người không làm ra được đủ lúa ăn thì lại có một thứ công nghệ nào đó cho phép họ đem sản phẩm ấy đổi lấy ngũ cốc, hoặc những người làm ruộng tìm đến chỗ họ, hoặc chính họ mang hàng đến đến đổi lấy gạo tại chỗ. Ðôi khi cả hai phía đều ngày càng giàu có khá giả lên. Ngày nay, trong các nhà giàu, ta còn thấy những chiếc chiêng cổ rất quý, nguyên gốc Cămpuchia hay Lào, là bằng chứng của những cuộc trao đổi thời phồn thịnh ấy.
Các cuộc đi lại mua bán ấy có khi cũng là dịp cho các cuộc hôn nhân. Nói chung, người Tây Nguyên lấy nhau trong tộc người của mình, thông thường ngay trong làng mình. Nhưng cũng có khi họ đi tìm vợ ở một tộc người bên cạnh, ở lại luôn phía vợ hay đưa vợ về làng mình, tùy theo tập tục của chế độ mẫu hệ; nhưng những cuộc hôn nhân với người nước ngoài - da vàng hay da trắng - rất hiếm và bị coi là hôn nhân không tương xứng. Các cuộc hôn nhân giữa những người khác tộc đó tuân theo những sự gần gũi nhau vốn có giữa tộc người này và tộc người nọ, chẳng hạn giữa người Mạ và người Srê, người Srê và người Noang.
Các nhân tố địa lý, chính trị, dân tộc học, đã vẽ nên trên bản đồ Tây Nguyên những con đường thông thương lớn, cũng đồng thời là những tuyến ảnh hưởng. Các con sông, phụ lưu của sông Mê Kông nối liền người Mạ, người Stiêng, người Bana, toàn bộ vùng Tây-Bắc cao nguyên với Cămpuchia và Lào, những con đường ở đó việc buôn bán rất sôi nổi, bằng thuyền độc mộc có thể chở đến hai trăm kilô. Ðấy là những con đường lớn, gung bötau như cách gọi của người Srê ngày xưa, xuyên qua cả xứ sở rừng núi từ Tây-Nam đến Tây-Bắc, những con đường của người Mạ dùng voi để chở hàng, đường của người Srê đi về phía Blao hay Ðà Lạt, đường của người Raglay đi đến vùng người Noang, đường của người Bana đi đến vùng người Xơđăng, hầu như bao giờ cũng song song với các dãy núi. Ðấy là những "con đường muối" của người Tây Nguyên đổ xuống phía Ðông-Nam đến bờ biển Trung bộ, người Bana xuống Qui Nhơn, người Noang xuống Phan Rang, người Mạ, người Srê, người Raglay xuống Phan Rang và Phan Thiết.
Trên những con đường thông thương lớn đó diễn ra việc buôn bán trao đổi; chúng tạo nên những cuộc tiếp xúc và định hướng các ảnh hưởng. Chúng tạo cho một số tộc người những vị trí-chìa khóa, như làm cho tộc người Mạ trở thành một cánh cửa mở về hướng Cămpuchia, người Raglay thành một cánh cửa quay, vừa là nơi đi qua của người Noup và người Noang ở vùng Ðông-Bắc vừa là cánh cửa mở xuống vùng duyên hải Ðông-Nam. Chúng cũng khiến cho người Raglay trở thành những người trung gian giữa cư dân trong nội điạ với người Chàm, rồi với người Việt. Ngày nay vẫn còn dấu vết của cái ngã tư con người đó: ở một làng nhỏ dường như mất hút trên những ngọn đồi khô cằn, làng Yabö, có một gia đình mang dòng máu trộn lẫn từ nguồn gốc, một phần Mạ, một phần Srê. Chỉ trong một căn nhà sàn, ta có thể nghe nói cả tiếng Mạ, tiếng Srê lẫn tiếng Raglay.
Do những điểm gặp gỡ tạo nên bởi các con đường lớn ấy, người Tây Nguyên đã trộn lẫn vào nhau, hoặc bằng cách đến cư trú trong một nhóm bên cạnh - điều khiến cho những nét đặc trưng của mỗi tộc người bị che lấp đi - hoặc bằng những tiếp xúc lặp đi lặp lại khiến không có tộc người nào không được biết đến. Những tộc người hay đi du hành nhiều nhất biết phương ngữ của các tộc người được xích lại gần, và do đó, cả phong tục tập quán của họ. Một khi đã biết nhau, họ thán phục nhau, phán xét nhau, phê phán nhau: người Mạ thông cảm với người Srê hơn; họ cần thiết lẫn cho nhau. Người Êđê nhìn người Srê như những kẻ hạ đẳng đáng khinh, người Srê đến lượt mình lại xem những người Cil khốn khổ như loại người hạng bét, và người Cil, chẳng chút tự tôn, sẵn sàng chấp nhận. Các ngọn núi dốc đứng khô cằn của họ chẳng phải không làm phai nhạt tính cách của họ.
Người Tây Nguyên ngày xưa là vậy đó, những nhà du hành lớn, nhưng không phải là người du cư. Ngày nay không còn như thế nữa. Các biến cố chính trị, các cuộc chiến tranh khiến các con đường không còn an toàn; những sự gò bó của chế độ thuộc địa khiến các khối người trở thành bất động. Ở một vùng, người Tây Nguyên không dám phiêu lưu quá xa; ngoài ra họ chẳng còn có thì giờ rong ruổi trên đường. Kết quả là tình trạng nghèo khổ và một sự suy thoái nhất định.
Các cuộc du hành ngày nay bị hạn chế về nhịp độ và tầm đường. Thời kỳ được lựa chọn luôn là mùa khô, sau vụ thu hoạch; nhưng người ta đã bỏ các con đường lớn. Người ta không còn đi về phía duyên hải, mà là về các tỉnh ly trong nội địa nơi người Việt đã đến và độc quyền buôn bán. Người Srê chẳng hạn, chỉ còn thấy người Mạ đến chỗ mình mang theo những tấm chăn để đổi lấy gạo, hay người Raglay bán những loại dược thảo đổi lấy gạo mà họ cũng thiếu. Chính người Srê cũng ít đi ra khỏi xứ, nếu không phải là đi mua một con trâu ở nơi người Mạ gần nhất, hay những sản phẩm tre đan nơi người Rölöm, cần thiết cho công việc tối thiểu hàng ngày.
Chẳng phải vô cớ nếu ta kết luận rằng, trong lĩnh vực này, người Tây Nguyên chẳng được lợi lộc gì với sự thay đổi nền thống trị, làn sóng châu Âu đã đẩy lùi sự đi lại, làm khô cạn các dòng trao đổi và làm thụt lùi sự phồn vinh ngày xưa.
[1] Ddửs pửnddik là từ Srê dùng để chỉ ngôn ngữ thiêng, bí hiểm, cổ xưa, dùng để hát các truyền thuyết, ngôn ngữ huyền bí ngày nay ít ai hiểu, nhưng lại chung cho tất cả có tộc người. Hiện tượng này cũng thấy ở người Chàm, cũng như ở hầu hết những người malayo-pôlynêdiêng.
[2] Người Bih, ở Ðông-Nam Daklak, là một tộc người nói tiếng Chàm.
[3] Một thứ nhạc cụ.
Phần IV
Diện mạo Tây Nguyên
Khi người Xơđăng ra trận
- Người Xơđăng là một dân tộc thợ rèn. Xứ sở của họ, có những dải núi
cổ, giàu mỏ sắt. Khi công việc nương rẫy đã xong, hơn sáu mươi làng lo
đi khai thác quặng, nấu luyện, rèn, và đưa đi bán dưới dạng rìu, cuốc,
xà-gạc, dao, dáo và kiếm. Dù họ đã cung cấp khá nhiều các thứ ấy cho
những người láng giềng, họ vẫn còn có thể xuất khẩu số lượng lớn nếu họ
không thiếu công cụ và phương pháp để xuất khẩu. Một cái bệ gồm hai
ống lớn, trong đó chuyển động những pít-tông làm bằng da nai, một tảng
đá hoa cương làm đe và một hòn đá làm búa là tất cả đồ lề trong nhà máy
của họ. Người Xơđăng không dệt vải; nghề rèn chiếm hết thời gian rảnh
rỗi của họ và cung cấp cho họ mọi thứ cần thiết, bằng con đường trao
đổi. Khi một làng muốn tấn công một làng khác, họ không bao giờ lên đường mà không bói xem chiến dịch có thành công hay không. Họ chẳng thiếu phương tiện để đảm bảo việc đó. Trước khi bước ra khỏi nhà rông, họ bói bằng một cái rễ cây rất có hiệu lực tiên tri. Một trong những người chỉ huy cuộc tấn công chặt cái rễ ra làm ba khúc mà ông ta đặt trên lưỡi kiếm của mình và sau đó để cho chúng rơi xuống từng cái một trên chiếc khiêng của ông, vừa khấn. Nếu các lát rễ quay về phía thuận lợi, đoàn quân sẽ bách thắng. Lúc ấy, những chiến binh dũng cảm nhất đứng dậy, cầu xin Thần cho một thành quả thật tốt đẹp, và trình với Thần các nguyên do của cuộc chiến. Rồi ông ra đi. Tất cả những người khác lộn xộn đi theo ông, trang bị khiên, ná, kiếm và giáo.
Ngày hôm đó, mỗi người đều đóng chiếc khố đẹp nhất, mặc áo nếu họ có, và một tấm vải nhỏ, màu trắng hay xanh mà họ vắt chéo ngang ngực làm vật trang trí. Tất cả đồ dự phòng gồm một suất gạo và thuốc hút đủ ba ngày. Các chiến binh đôi khi chia thành hai hay ba tốp và quy định một điểm tập kết. Vừa ra khỏi làng, họ vừa đi vừa lắng nghe tiếng chim. Nếu tiếng chim báo điềm lành, lại thêm không gặp chuột trên đường, nai không tác trong rừng, thế là họ đi rất hăng hái và dũng mãnh. Ðôi khi họ thấy một con chim săn mồi lượn trên cao và kêu những tiếng lảnh lót: vậy là mong ước của họ được phỉ nguyền: "Ði lên, nào anh em, diều hâu kêu, ta sẽ được con mồi tốt".
Thông thường họ đi theo những con đường mòn ít ai đi nhất, e rằng kẻ thù sẽ biết được tin kịp thời và chuẩn bị đối phó. Ít khi họ dám tấn công một làng; thường là đánh bất ngờ và dựa vào bóng tối; trước hết họ muốn không để lại người chết trên chiến trường và không phải trộn lẫn nước mắt với niềm vui chiến thắng. Thông thường nhất là họ phục kích quanh một cái rẫy cô lập, kiên nhẫn chờ kẻ thù tự đến sa vào tay họ; họ sẽ vây chặt, chộp lấy, tròng dây vào cổ và kéo đi thật nhanh, vừa hò hét vui mừng và thét những lời đe dọa khủng khiếp, cứ như họ sẽ phanh thây kẻ thù ngay tức thì. Khi người sa vào ổ phục kích là đàn bà hay trẻ con, việc bắt giữ dễ dàng; nhưng nếu là những người trai tráng hay những người đã già dặn, khó lòng bắt được mà không phải đổ máu, bởi những người đó không bao giờ dễ hèn nhát quy hàng.
Các cuộc chiến tranh này tàn hại hơn nhiều khi người chiến binh quyết định đi tấn công kẽ thù ngay tại giữa làng của họ. Khi đó người đi tấn công có nhiều người hộ trợ đi theo; tận dụng đêm tối họ tiến đến sát mục tiêu, và nếu họ có thể phá rào mà không gây ra tiếng động, họ bổ nhào vào các nhà, cắt cổ kẻ nào kháng cự, cả những người già mà họ sẽ chẳng lấy được chút lợi lộc gì, bắt nhiều tù binh đàn bà và trẻ con, cướp bóc mọi thứ và vội vã rút lui, sợ các xóm chung quanh có thì giờ chặn mất đường rút. Khi cuộc chiến thắng lợi, các chiến binh trở về làng, vừa hò hét, nhảy các điệu múa chiến thắng và tự hào vung kiếm tuốt trần. Ngay tức thì người ta giết một con dê để tạ Thần; rồi người ta uống cạn nhiều ché rượu cần, người ta gõ những chiếc thùng lớn, đánh trống và thổi bằng tù và sừng trâu một thứ nhạc đơn điệu, đó là điệu mừng chiến thắng (ở vùng Xơđăng).
Tuy nhiên cuộc vui ấy không trọn vẹn, bởi họ biết kẻ thù sẽ sớm xuất hiện, đang căm uất và chỉ mong báo thù; cho nên họ phải tăng cường dự phòng và cảnh giác để tránh một cuộc tập kích bất ngờ sẽ mang đến những vụ khủng bố rùng rợn.
Sự cảnh giác ấy của người Xơđăng chỉ giảm đi chút ít sau khi đã bán những người bị bắt, hay khi làng thua trận đã chuộc họ về và hòa bình đã được thỏa thuận.
Mọi cuộc chiến tranh thắng lợi đều nhất thiết kéo theo những cuộc tiệc tùng và vui chơi công cộng. Số trâu bị giết trong dịp này ngang bằng với số tù binh bắt được của kẻ thù. Cuộc lễ hội ấy được báo trước mười lăm ngày bằng tiếng trống nhịp nhàng của đám thanh niên mỗi tối, vừa nhảy múa những điệu múa chiến đấu trong nhà rông.
Ngày hôm trước của lễ hội, các già làng họp nhau từ sáng sớm, vì phải lo việc buộc trâu; đôi người trai trẻ được phái đi tìm thứ rễ thần diệu có thể làm cho các cột lễ không thể lay chuyển. Họ ăn mặc thật đẹp và trang trọng đi làm nhiệm vụ. Mỗi con trâu được buộc vào một cây cột bằng một sợi dây dài bện bằng mây, để cho con trâu có thể chuyển động, nhảy lên và chạy vòng bốn phía, trong một bán kính nhiều mét. Các cây cọc được trang trí bằng những tua dài tung bay; chúng được cắm vây tròn quanh một cây cột là loại cây sống, sau đó nó sẽ tiếp tục lớn lên và nhắc nhở các thế hệ sau về một cuộc lễ và một vinh quang của những người xưa. Chính ở đấy người chiến binh sẽ đứng ngắm các nạn nhân của mình một ngày và một đêm trước khi hạ sát chúng. Ngay sau khi chúng vừa được cột, người ta đã tiến hành một điệu múa rước vòng quanh, theo nhịp trống và chiêng, kéo dài cho đến rạng sáng ngày hôm sau. Thỉnh thoảng người ta lại dừng lại một lúc để cất tiếng hú lớn chống lại kẻ thù đã bị đánh bại.
Trong khi đó nhiều ché rượu đã được bày ra đây đó trên mặt đất, và những đám người quây tròn vui vẻ hút chất rượu dễ say người, bằng những ống hút dài. Những vị khách mời kéo đến ngay, và đám người chẳng mấy chốc đã mênh mông.
Ngày hôm sau, khi trời vừa rạng sáng, tiếng nhạc tắt đi và những người trai trẻ cầm lấy vũ khí. Các con trâu, tượng trưng cho kẻ thù chiến bại, phải gánh lấy tất cả gánh nặng của mối căm hận đối với kẻ thù và nhân cách hóa chiến bại của chúng bằng một cái chết dã man. Ngay khi có tín hiệu đầu tiên, chúng đã bị găm một trận mưa mũi tên; chúng rống lên, sùi bọt mép, nhảy vung lên hung dữ về phía những kẻ tấn công. Nhưng mỗi cú nhảy, chúng lại vấp ngã và mang thêm những vết thương mới. Tiếp sau các mũi tên, đến cây gươm; những người khéo léo nhất hướng nhát gươm của họ vào đúng kheo chân nạn nhân mà cơn điên dại khiến cho nó còn đứng được khá lâu nữa trên những đôi chân đã trật khớp và bị chặt cụt. Cuối cùng toàn thân nó chỉ còn là một vết thương và mặt đất đã đỏ lòm máu của nó, nó ngã xuống: cây giáo đâm nhát kết liễu.
Một đống lửa lớn được đốt lên thui cháy lem nhem lớp lông; rồi con trâu được xẻ ra, chia phần, và buổi tiệc bắt đầu. Ðêm đến, các vị khách trở về làng của họ, chỉ còn mơ tưởng đến chiến tranh và chiến thắng. Cũng như cuộc lễ hội đã có một đêm thức, nó cũng sẽ có một ngày hôm sau để thanh toán nốt các tàn dư của bữa tiệc.
Sau các cuộc chiến đấu là các cuộc hòa giải. Ðể làm việc đó, những người mối lái khôn khéo đi đi lại lại từ bộ tộc này sang bộ tộc nọ, san bằng dần các khó khăn; cuối cùng họ đi đến được thỏa thuận và hòa hợp.
Người ta định ra một ngày để ký kết hòa ước, hòa ước phải được đảm bảo bằng một lời thề long trọng: hai làng họp nhau trong nhà rông của bên đã bắt đầu cuộc thương thuyết và mỗi bên chọn một trong những già làng hành động thay mặt tất cả dân làng. Bên này là một người đàn ông, bên kia là một người đàn bà. Những người đại biểu làm như sau: họ dùng một con dao và tự cắt vào một ngón tay mình; máu của họ sẽ nhỏ vào một cái cốc chung và được trộn lại với nhau; khi việc hòa trộn mang ý nghĩa ấy đã được thực hiện, mỗi người uống một phần vừa đọc những lời cầu khấn. Như vậy là cuộc liên minh đã hoàn thành. Ít ngày sau, người ta phê chuẩn hòa ước bằng cách lặp lại những nghi lễ như vậy ở nhà rông làng bên kia.
Ðời sống người Bana - Toàn bộ vùng đất Bana đều phủ một lớp rừng liên tục và dày đặc mà chiếc rìu của người "Mọi" đã đốn dần đi, nhưng lại tái sinh và lấp lại các lỗ hổng của nó nhanh nhóng và mạnh mẽ đến kỳ lạ. Ở đây không thấy có đồng bằng, trừ phía Ðông-Nam và phía Tây giáp với người Rơngao. Khắp nơi đều là núi, quả là không cao lắm, nhưng đan chéo nhau theo mọi hướng. Rất nhiều sông suối; một số đổ về phía đông, vùng Trung bộ; số khác đổ về phía sườn ngược lại, chảy dọc xứ đất Bana từ Bắc xuống Nam, ven vùng Xơđăng, và đổ về Mê Kông.
Ðất đai vùng Bana không màu mỡ bằng vùng các tộc người chung quanh. Tuy nhiên nhiều làng gieo một thu được đến trăm; song nhiều nơi gieo một chỉ thu được mười lăm đến hai mươi. Ít khi người Bana có đủ thóc ăn cho giáp vụ. Ðiều này cũng còn do cách canh tác của họ. Khi họ đốn hạ một góc rừng và đốt để làm rẫy, đất đai có một sức sống mạnh mẽ có thể bù đắp được trong hai hay ba năm những nỗi cực nhọc phải bỏ ra vì công sức lao động nặng nhọc đến thế. Nhưng những công cụ họ có không cho phép họ giữ được sự màu mỡ ấy; tất cả những gì họ làm và tất cả những gì họ có thể làm là chọc tỉa hạt giống xuống đất bằng một cây gậy vót nhọn, và sau đó làm cỏ bằng một chiếc cuốc con. Ðất không được xới lên kiệt đi rất nhanh. Sau ba vụ thu hoạch, nó bị bỏ và trả lại cho rừng.
Khi người Bana thiếu gạo, họ ăn các thứ lá và rễ cây trong rừng. Ðàn bà lo việc đi hái lượm, và khi bà không cung cấp được đủ cho cả gia đình, thì người chồng chia xẻ công việc bạc bẽo hàng ngày này. Thật đáng thương khi thấy những con người khốn khổ ấy bỏ cả buổi sáng đào bới đất để moi lấy mấy cái rễ cây. Họ gầy đi, xanh xao và chẳng còn sức lực; nhưng họ vẫn tìm được cách kéo dài cuộc sống, và thậm chí còn giữ được niềm vui trong những khủng hoảng mà nhiều người khác hẳn khó tránh khỏi cái chết. Mỗi năm, hai phần ba dân chúng ở trong tình trạng đó, và khi nạn đói kém lớn hơn thương lệ thì là cả dân tộc phải chịu đựng.
Sự cô lập của người Bana, ở giữa các khu rừng và núi của họ giải thích vì sao họ ít tiến bộ đến thế về nghệ thuật và ngành nghề: tất cả những gì họ biết làm, ấy là do nhu cầu và sự bó buộc dạy cho họ. Họ làm ra một cái nồi tạm dùng được để nấu cơm và vài món rau rừng; họ rèn chiếc rìu nhỏ, chiếc xà-gạc và chiếc cuốc là toàn bộ đồ lề làm nông của họ; cây gươm dùng để hạ sát thú rừng, và tấn công kẻ thù (... trong thế kỷ trước) và tự vệ, cũng như một con dao cán dài để làm trăm nghìn thứ vật dụng nho nhỏ mà họ rất giỏi. Cây ná của họ thật đẹp, bắn tên trúng đích và rất mạnh, cũng do tay họ làm ra; chiếc ống điếu dài, trang trí những đường rãnh xoi và những hình thù nho nhỏ, là sản phẩm lao động khéo tay nhất của tộc người.
Phụ nữ dệt một tấm vải, màu trắng hay xanh đậm, dùng làm tấm chăn, dù thô nhưng vẫn là món hàng trao đổi chính giữa người Bana và người Xơđăng. Các làng ven bờ sông Bla làm những con thuyền nhẹ, chắc chắn và xinh xắn, khoét trong một thân cây độc mộc.
Việc buôn bán của người Bana chỉ gồm có việc trao đổi vài vật dụng tối cần thiết và giá chẳng bao nhiêu. Họ quá sợ hậu quả nợ nần và mất tự do để dám đeo đuổi cơ hội rủi may của việc mở rộng buôn bán. Vài tấm chăn và một ít sáp ong hàng năm đến làm tổ trên các cây trong rừng của họ, họ đem trao đổi lấy sắt, muối, chén bát, ché, nồi đồng, và đôi khi những chiếc chiêng là món thèm muốn nhất của người Bana nhưng đắt đến nỗi họ chẳng mấy khi mua được món hàng ưa thích này.
Gia súc, gạo, ngô và hàng ngàn món đồ thủ công cũng nằm trong vòng trao đổi hàng ngày hạn chế cuả họ.
Người Bana ở thành làng từ hai mươi đến một trăm nóc nhà. Ở giữa làng là nhà rông, dễ nhận ra vì cái mái cao và đôi khi được đan rất nghệ thuật.
Nội thất của căn nhà sàn có bao nhiêu hộ thì được chia thành bấy nhiêu ngăn; người ta giành một ngăn lớn hơn các ngăn khác để đón khách. Vài chiếc ché dùng để đựng rượu là tất cả trang trí.
Ở giữa mỗi ngăn là một cái bếp để nấu nướng, buổi tối từng gia đình nằm ngủ quanh bếp lửa, trên những chiếc chiếu lát. Người chồng, người vợ và lũ trẻ mới được ưu tiên nằm ngủ quanh bếp; những người con gái đến một độ tuổi nhất định có một góc riêng. Những người trai trẻ, từ mười ba, mười bốn tuổi trở lên cho đến khi lấy vợ, chỉ ngủ ở nhà rông.
Giữa những người trong cùng một làng, nói chung có một tinh thần cộng đồng rất rõ nét. Như một nhà không bao giờ uống rượu của mình mà không mời các gia đình khác. Nếu một ai đó mổ thịt một con lợn, một con dê hay một con trâu, người ta chia thịt thành từng phần đủ cho từng người dân trong làng và phần của người chủ không nhiều hơn phần của những người khác. Không ai bị quên trong cuộc chia phần thân ái đó và, từ đứa trẻ còn bú vú mẹ cho đến người già đáng kính nhất đều có phần bằng nhau. Con nai, con lợn rừng, con mang bắt được trong các cuộc săn cũng theo luật chia này; chỉ riêng những người thợ săn được chiếm phần hơi nhiều hơn bù cho sự mệt nhọc của họ. Người ta từng thấy một con gà mái nhỏ nhoi được chia thành bốn mươi hay năm mươi phần! Những đứa trẻ, được rèn luyện từ lâu theo tinh thần của cha anh, đã noi theo gương họ từ tuổi bé thơ. Trong các cuộc săn đuổi của chúng, khi bắt được một con rắn, một con thằn lằn hay một con chuột, ta sẽ thấy, lúc trở về, đứa lớn nhất trong bọn cắt nhỏ con vật ra thành nhiều miếng, không bao giờ vi phạm luật công bằng chặt chẽ nhất.
Những cách thức ấy, khiến ta nhớ đến lòng bác ái của những cộng đồng Cơ đốc giáo đầu tiên, càng làm tăng thêm các mối quan hệ huyết thống vốn đã liên kết hầu hết các gia đình trong một làng. Các tộc người láng giềng cũng tuân theo phong tục đó, nhưng không chặt chẽ bằng.
Kết ước liên minh ở người Rơngao - Kết nghĩa bạn bè là hình thức liên minh đơn giản và phổ biến nhất ở vùng người Rơngao. Gần như không bao giờ thấy một người Rơngao nào đó mà lại không có nhiều người bạn hay pô. Loại giao ước này được thiết lập chỉ bằng một tiếng ừ hay không; nó thậm chí là một trong những điều kiện cần thiết trong việc buôn bán trao đổi ở một xứ sở không hề biết đến quán xá, trạm khách cho những người đi đường, và ở nơi mà nơi mỗi làng, plei, là một thứ nước cộng hòa khép kín mà người lạ không được bước vào nếu không nói đúng mật hiệu. Tên người bạn sẽ là mật khẩu duy nhất để cánh cổng ngăn mở ra cho anh ta.
Ở vùng Bana, Rơngao, Giarai, nó được gọi là Krao pô ("tên là bạn"). Khi đã kết nghĩa bạn bè đơn giản, những người bạn không thể sử dụng bạo lực với nhau nếu không có duyên cớ là một sự xúc phạm cá nhân. Sự kết nghĩa này không chỉ gắn với người được gọi là pô mà cả với vợ anh ta, chị ta cũng được gọi như vậy, với cha mẹ và các con của anh ta. Những sự ràng buộc không đi xa hơn nữa. Khi một cuộc hôn nhân liên kết hai làng với nhau, hai làng trở thành đồng minh; họ không được có hành động chiến tranh nào với nhau, nếu không thì những mối liên kết sẽ không thành. Tuy nhiên vẫn cho phép có chuyện phạt vạ giữa các gia đình không có quan hệ hôn nhân nói trên. Việc kết nghĩa bạn bè không có tác động gì đến cộng đồng còn lại; đấy là một hành vi thuần túy cá nhân.
Việc kết nghĩa krao pô đặc biệt cho phép người ta coi nhau như anh em; sau cuộc kết nghĩa đó, người ta trở thành một gia đình chung, được coi như người trong nhà, được hưởng phần cơm của mình và được nhận một chiếc chiếu để nghỉ. Ðó là phần lợi được những người du khách rất quý trọng.
Ðể kết nghĩa bạn bè, cần có những người làm mối, hay nói theo cách địa phương, "một con đường", giống hệt như trong chuyện cưới xin. Về chi phí, thường chỉ là một con gà con và một ché rượu; nhưng bố mẹ và bạn bè thường góp thêm phần rượu của mình. Khi mọi chuẩn bị cho nghi lễ đã xong, những người làm mối đưa cần rượu cho từng người bạn, rồi ngồi yên trong khi hai người bạn đọc lời khấn sau đây:
"Txu! xin hãy nhận rượu và gà của cả hai chúng tôi để chúng tôi được gọi là pô. Xin các thần núi phù hộ chúng tôi! Xin các thần sông cho chúng tôi được khỏe mạnh! Xin cho chúng tôi được sống lâu! Cho chúng tôi được sống đến tuổi già, cho đến khi tóc chúng tôi đã bạc và rốn chúng tôi đã đóng vảy! Cho chúng tôi được đến thăm viếng nhau luôn để trao đổi hay cho nhau mượn các vật quý và hàng hóa! Cho chúng tôi vui mừng khi đi và khi về! Nếu bạn tôi ức hiếp tôi, giấu biệt của cải, chiêng ché, trao đổi lỗ vốn cho tôi, khiến tôi sạt nghiệp, tôi muốn anh ta sẽ phải chết, phải tàn rụi, biến mất cùng với tất cả các con và vợ anh ta! Xin các thần hãy về đây, hãy uống rượu và ăn gan gà này; chúng tôi sẽ xin uống sau."
Khi các thần đã no say, "con đường" đưa cho mỗi người bạn một miếng thịt gà, và mọi người cùng ăn và uống, mỗi người phải uống hết phần sừng hay can rượu của mình.
Khi hai người bạn chia tay, người đã chịu chi phí cho buổi tiệc tặng người pô của mình một món quà. Món quà của anh ta ít nhất cũng là một chiếc rìu; thông thường người ta tặng một tấm choàng trắng, hoặc một chiếc khố thêu, giá bằng một chiếc ché; khi muốn tỏ ra cao thượng người ta tặng cả một chiếc nồi. Món quà này có tên là chum ("nụ hôn") và phải được trả lại với giá trị ít ra là tương đương như một món nợ thật sự.
Ðôi khi người ta làm việc kết nghĩa này nhằm một mục đích lợi ích vật chất nào đó: chẳng phải phiền lòng khi vay mượn của người hàng xóm: củi đuốc, măng tươi... Cũng có khi người ta làm việc này đơn giản chỉ vì có cảm tình thật sự với một ai đó. Nhưng thông thường nhất việc ấy mang một tính chất tôn giáo: người ta không thể mang tên là pô một cách đùa cợt: ngay lúc ốm, người thầy cúng sẽ tìm được nguyên nhân và nhận ra được kẻ thủ phạm.
Duyên cớ thông thường nhất của việc kết nghĩa này là giấc mơ. Khi năm mơ thấy mình kết nghĩa với một người hàng xóm, ấy tức hai linh hồn đã kết nghĩa trước mặt thần linh; một lời hứa như vậy là thiêng liêng hơn mọi thứ, người ta phải giữ trung thành như với thần linh, vì trong trường hợp này thần linh đã được báo. Lời cầu khấn lúc làm lễ kết nghĩa trong những điều kiện đó kết thúc bằng câu:
"Xin hãy nhận lấy rượu và gà của chúng tôi! Xin đừng cho phép tin rằng chúng tôi chỉ còn phải chịu một nghĩa vụ nghi thức, chúng tôi đã kết nghĩa pô".
Các cuộc kết nghĩa anh em không thiêng liêng đến mức không phải lo chuyện phản bội. Khi nghi ngại có thể có sự phản bội, người ta đòi hỏi phải có "cắt máu ăn thề", xep.
Lúc muốn làm xep, phải có một ghè rượu nhỏ. Bao giờ người ta cũng giết một con gà, và thông thường cả một con heo, rồi người ta cho máu những con vật ấy chảy vào một chiếc bát nhỏ. Người chi cho buổi lễ cắt một vết nhỏ ở đầu ngón tay trỏ và cho nhỏ mấy giọt máu trộn với máu các con vật lại; rồi cho thêm ít rượu vào đó. Người ta lại cạo vào món rượu máu ấy một ít sừng nai, để rắc tượng trưng vào đấy các mầm bệnh. Rồi người ta lại cạo răng hổ, nanh lợn rừng, ngà voi để ủy thác người kết nghĩa của mình cho các con vật đó. Lại thêm vào đó vài thứ bùa ngải, rễ cây được giã nát, vỏ cây. Cuối cùng người ta nhúng vào thứ nước thiêng đó một chiếc vòng đồng đã nung đỏ, để cho hồn kẻ bội ước cũng sẽ nóng bỏng lên như món kim loại này.
Mọi việc chuẩn bị đó xong xuôi, người đòi hỏi phải ăn thề sẽ uống một phần thứ nước ấy; rồi người ta rót chỗ còn lại, một phần lên cằm để nó chảy xuống trên ngực anh ta, một phần lên đầu cho nó chảy xuống trên gáy và lưng anh ta. Trong khi làm việc đó, anh ta đọc lời khấn:
"Xin hãy chứng dám chúng tôi cắt máu ăn thề! Nếu tôi ăn nói nham hiểm, nếu tôi ăn nói xấu xa, nếu tôi nói lời đe dọa, nếu tôi thông đồng trong khi ăn với người lạ, thì tôi sẽ chết, tôi sẽ khô héo, tôi sẽ bị tiêu tan! Nếu anh ta ăn nói nham hiểm, nếu anh ta đe dọa tôi, anh ta cũng sẽ chết như vậy!"
Trong lễ ăn thề, những người bạn của người kết nghĩa cùng hùa những lời nguyền rủa với anh ta: một số người chơi điệu chiêng chiến thắng, tượng trưng cho sự đe dọa trả thù kẻ bội thề; một số người khác nói những lời than khóc người chết; những người khác nữa làm những cử chỉ kèm theo những lời nguyền rủa không thể tưởng tượng; tất cả đều nhằm tác động mạnh mẽ đến các thần chứng giám cuộc thề và các thần chủ trị các kiểu chết khác nhau. Như vậy nghi thức sẽ có hiệu lực hơn.
Rồi đến việc hiến tế ở ché rượu, cũng chứa đủ thứ biểu tượng của các kiểu chết: chất cạo ra ở sừng nai, răng hổ, ngà voi, nanh lợn rừng, đất lấy ở mộ, rể cây độc. Người ta còn cắm vào đấy một thanh gươm và một mũi tên để tượng trưng cho cái chết dữ; người ta đặt thêm vào đấy một cây sậy dùng làm nhà tranh để tượng trưng cho ngôi nhà mồ. Cuối cùng, lại thêm một thanh củi cháy rực. Lời khấn nhắc lại và phóng đại những nguyền rủa trong lời thề:
"Txu! Xin hãy chứng giám chúng tôi thề với nhau. Xin hãy các thần hãy uống và ăn đi đã, và phù hộ cho chúng tôi được sống lâu, mạnh khỏe và hạnh phúc. Cho chúng mãi trung thành với nhau cho đến đời con đời cháu. Cho chúng tôi đi thăm viếng nhau, trao đổi và cho nhau mượn các thứ hàng hóa của chúng tôi. Nếu bạn tôi ăn nói nham hiểm,... hãy khiến anh ta phải chết, phải khô héo, phải bị tiêu diệt; phải bị trúng tên, phải bị gươm đâm! Phải bị cây đè! Phải bị nứa xuyên! Phải bị hổ vồ! Phải bị voi dày! Phải bị heo rừng xé! Phải bị ma bắt! Phải bị lửa đốt cháy nhà và rẫy! Phải bị dao và xà-gạc của anh ta làm cho bị thương! Phải bị lở loét khắp người! Phải bị bệnh phong nuốt chửng, cả vợ và con nữa!"
Trong lúc hiến tế, những người tham dự lại càng hát to những bài hát chiến đấu, gào to những lời khóc than, những lời nguyền rủa, và múa máy những cử chỉ đe dọa. Ðất lấy ở mồ và những mẩu dây leo sầu não được tung ra bốn phía.
Sau buổi tiệc, khi người bạn xin ra về, người ta lấy một chiếc đùi gà và đập vỡ vào đầu gối anh ta vừa nó:
"Txu! Hãy nhận cho ta đập vỡ cái đùi gà này. Nếu anh ăn nói nham hiểm thì chân anh cũng sẽ gãy như thế này."
Rồi người ta đưa chiếc bát đã dùng trong lễ ăn thề cho anh ta để làm kỷ niệm, thêm một chiếc chiếu vừa nói:
"Nếu anh ăn nói nham hiểm, nếu anh ăn nói đe nẹt, hãy cầm lấy chiếc bát và chiếc chiếu này để mà chôn anh, cầm lấy chiếc cuốc này mà đào mồ!"
Người ta tiễn người bạn kết nghĩa mới một đoạn đường, vừa đánh điệu chiêng chiến đấu và nói với anh ta mọi nỗi tai nguy nếu anh phản bội.
Lễ xep lớn được tiến hành khi hai làng thù địch muốn ký kết hòa bình lâu dài sau nhiều năm chiến tranh. Chiếc bát thề được giành cho những người thủ lĩnh; nhưng thay vì cho họ uống ngay trong chiếc bát như trong lễ thề thông thường, người ta đổ một phần bát vào cái bồ đài bằng lá chuối, và người đưa cái bồ đài giải thích nghi thức ấy như sau:
"Nếu anh ăn nói nham hiểm, anh sẽ chết như chiếc lá khô này!"
Trong dịp này điệu múa chiến đấu long trọng hơn. Việc đập vỡ chiếc đùi gà, ngày hôm đó được thay thế bằng việc đập gãy một chiếc chày giã gạo cũ mà người ta vác trên vai và bị chặt ở giữa bằng một con xà-gạc, vừa nói:
"Hãy chứng giám chúng tôi chặt đôi chiếc chày giã gạo cũ này. Nếu chúng tôi ăn nói nham hiểm, thì nhà chúng tôi, của cải của chúng tôi tan nát hết, giống như tôi chặt chiếc chày này làm đôi! Chỉ khi nào chiếc chày này xanh tươi trở lại, trổ lá trở lại, thì chúng tôi mới lại đánh nhau."
Hội thề máu ràng buộc một mối liên minh tuyệt đối, kéo theo nghĩa vụ phải báo cho phía liên minh biết khi kẻ thù ngầm chuẩn bị một âm mưu chống lại họ; nghĩa vụ dứt khoát không cho kẻ thù đi ngang qua lãnh thổ của mình; nghĩa vụ phải cứu viện bên liên minh khi họ lâm vào tình thế khó khăn.
Ðối tượng kết nghĩa còn có thể là: các thần linh thuộc hàng cao hơn, các thần của các cây to và các thần của các loài thú đáng sợ hơn cả và được tín ngưỡng dân gian cho là biểu tượng của những đức tính cao hơn chúng ta.
Việc kết nghĩa với Bô Brok, thần sấm, được coi là một ân huệ đặc biệt. Khi người ta được báo mộng gặp gỡ vị thần ấy, thì ngay ngày hôm sau phải làm lễ hiến tế một con dê, trong khi chờ đợi có thể kiếm được con vật mà thần đã đòi dâng hiến. Thông thường đó là một con trâu hay một con bò đen: cả hai đều đặc biệt thân thiết với thần. Lời khấn lần này như sau:
"Xin mời thần hãy đến đây! Xin hãy nhận vật hiến tế là một ghè rượu và một con dê, nhân dịp kết nghĩa từ cha đến con mà tôi đã giao ước trong giấc mơ đêm nay với Bô Brok. Xin thần sấm, thần sét hãy đến uống và ăn! Hãy khiến cho cuộc kết nghĩa được hiệu nghiệm! Xin hãy che chở và giữ gìn cho tôi! Xin hãy cho tôi của cải và giầu có! Xin hãy cho tôi chiêng và chũm chọe, của cải và đồ quý, vải vóc và áo khố! Xin cho tôi đổi hàng với người ngoài được nhiều lãi to! Xin cho tiếng nói của tôi cất lên, lời nói của tôi nổi bật, âm vang như tiếng sấm, và oai vệ như tiếng hổ gầm! Xin cho những người nước ngoài và những người du khách đều phải đến tìm tôi, ai nấy cũng chỉ tôn vinh có tôi! Xin cho rẫy và vườn của tôi đầy thóc! Xin mời ông sấm, ông sét, xin mời các thần, hãy trước tiên đến uống rượu này và ăn gan dê này. Tôi chỉ xin uống sau các thần!"
Kẻ may mắn được là đối tượng của một sự ưu đãi rất đặc biệt đó, do lời thề trung thành của mình, hơn mọi người khác phải giữ đúng những kiêng cữ do yang sấm quy định. Những điều cầm kỵ đó liên quan đến tất cả những gì được coi là trái với trật tự tự nhiên của các sự vật do tạo hóa sắp đặt, mà Bô Brok là người canh giữ.
Không phải là tàn dư của một tổ chức tô-tem cổ xưa, việc kết nghĩa với một số loài thú và loài cây, như ta thấy ở vùng Rơngao, có vẻ còn nguyên thủy hơn. Người "Mọi" kết ước với một số người nào đó ràng buộc những nghĩa vụ lẫn nhau, nhằm mở rộng các mối quan hệ và các liên minh của họ và do đó khiến cho mình mạnh hơn; họ không thấy tại sao họ lại không thể làm đúng như thế với các thần linh, thần nước, thần núi, thần rừng, thần các loài thú.
Ghi chú về người Giarai - Người Giarai là một tộc người quan trọng trải dài trên hai trăm cấy số, giữa người Rơngao và người Êđê. Phương ngữ của họ rất gần với hai tộc người này. Kỹ thuật của họ, và ngay cả loại hình thể chất của họ, cũng cao hơn các tộc người khác. Họ đặc biệt có năng khiếu về nghề dệt: phụ nữ dệt những tấm vải trắng xinh xắn có trang trí những dải xanh và đỏ. Ðấy là món hàng trao đổi chính của họ. Ðàn ông làm nghề rèn và tạo cho sắt một dáng vẻ thanh tao hơn vừa được tôi tốt hơn của các tộc người Tây Nguyên khác; họ có năng khiếu trang trí và làm ra những thanh gươm có cán bằng đồng nổi khá độc đáo.
Người Êđê năm 1900 và người Êđê ngày nay - Người Êđê đã cư trú ở Ðaklak từ nhiều thế kỷ, nhưng chúng ta chỉ mới biết đến họ gần đây. Năm 1893, bác sĩ Yersin là người da trằng đầu tiên tiếp xúc với tộc người đông dân, mạnh và giàu truyền thống còn được gìn giữ chống lại mọi ảnh hưởng tàn hại này.
Yersin, đến từ phía Bắc, đã mô tả xứ sở này nhu sau: "Ta đi lên cao dần khoảng năm mươi mét bên trên cao nguyên, và bỗng nhiên ta thấy mình đang đứng trên đỉnh một ngọn đèo và ta phóng tầm nhìn bao quát toàn bộ thung lũng Ðaklak. Cảnh tượng thật ấn tượng: toàn bộ thung lũng là một cánh đồng ruộng mênh mông bắt đầu từ chân đèo và chỉ dừng lại bên bờ nước. Ðây đó những chòm cây chỉ rõ đó là những làng. Ta nhận ra những đàn gia súc lớn đang tắm trong hồ. Thung lũng được bao bọc bằng những ngọn đồi cao dần lên về phía Nam, đến Liang Biang. Chính hồ nước tắm chân những ngọn đồi khép lại vùng thung lũng Nam-Tây-Nam. Chúng tôi đổ xuống thung lũng, và chẳng mấy chốc chúng tôi đã đi trên các bờ ruộng. Chúng tôi đi ngang qua một ngôi làng mà không dừng lại. Khi chúng tôi đến gần, tiếng trống trận vang lên, nhưng chúng tôi đã đi xa. Ðứng trưa, chúng tôi đến làng Tiour (Ban-Tour-Kuop), nằm cạnh hồ. Tôi đi vào một căn lều trống. Hơn hai trăm con người liền ùa đến khoa tay múa chân. Những người "Mọi" của tôi vùng chạy ra la toáng lên là người ta muốn cướp và giết họ. Một lát người chủ làng đến, tôi giải thích cho ông ta là tôi đến không phải để đánh nhau, mà là để thăm viếng xứ sở, và chẳng mấy chốc chúng tôi đã là những người bạn tốt nhất trên đời này".
Tiếp sau đó là một mô tả có phần đơn giản về loại hình người Êđê: "Những người "Mọi" ở Ðaklak là những người hoang dã đẹp nhất (sic) tôi từng được thấy. Ðàn ông cao lớn và cường tráng; đàn bà không bằng, họ nhanh chóng trở thành quá béo. Họ lắm mồm một cách khác thường; chắc chắn là họ làm ồn hơn các ông chồng nhiều. Hẳn người ta nghĩ ra nhiều điều ngộ lắm về tôi, vì mọi người đều la hét, ríu rít, cười phá lên. Hình như những người này chưa bao giờ nhìn thấy người Việt..." (điều khẳng định này không đúng vì người Êđê cũng như những người Tây Nguyên khác vẫn xuống vùng người Việt mua muối mà họ rất cần.)
Năm 1900, Lavallée, tùy viên của trường Viễn Ðông bác cổ tiến hành một chuyến khảo sát các tộc người Tây Nguyên: ông nói về người Êđê như sau: "Loại hình cơ thể họ thuộc dạng kém; đường nét không cân đối, da rất sẫm, tóc thường lăn tăn. Nhà cửa bẩn thỉu và không được chăm sóc, giống như ở người Giarai. Công nghệ của họ khá phát triển, chủ yếu có việc dệt vải bông màu sắc đa dạng hài hòa. Họ cũng chế tạo dáo, dao bầu và ná. Họ trồng lúa, ngô, bông, chuối, đu đủ, khoai. Họ trao đổi với người Việt sáp ong, da thú, sừng nai và song mây lấy chiêng và nồi đồng. Những người Êđê ở trong nội địa có đôi con voi mà họ dùng để chuyên chở hàng hóa xuống vùng Trung kỳ, từ đó chủ yếu họ lại mang về muối mà họ rất chuộng..."
Và tác giả kết luận đó là "một chủng tộc man dã, không tiến bộ, không ích lợi gì trong công cuộc khai hóa, chỉ tổ gây cản trở..." và mong rằng "tộc người man dã này sẽ đồng hóa với các tộc người láng giềng." Ông ta đã nhầm: đấy là điều tối thiểu ta có thể nói... Người Tây Nguyên tỏ ra có thể hoàn thiện: thực tế đã chứng tỏ sự thích ứng của họ trong việc hấp thu mọi tri thức, phát triển các kỹ thuật của họ.
Những người Êđê năm 1900 khốn khổ; họ quá man dã, lạc hậu đến mức đáng lên án bằng một cái vung bút như vậy chăng? Họ biết trông đợi ở đâu một niềm tin yêu để phát triển những giá trị truyền thống của họ?
Những ngẫu hợp các hoàn cảnh đưa những nhà thám hiểm đầu tiên, rồi những nhà cai trị đến xứ sở Êđê, đã đem đến cho tộc người này một sự phát triển đáng kinh ngạc, nhưng nhịp độ quá nhanh đã làm hỏng đôi phần các kết quả trù tính.
Ngay từ đầu thế kỷ, Maître đã đem đến hi vọng về các tiềm năng của cư dân Ðaklak, xứ sở vừa mới tách ra khỏi đất Lào mấy năm trước đó, vào năm 1904. Sau cuộc khảo sát của nhà thám hiểm này trên cao nguyên, từ Daklak đến Bù Ðốp, con đường 14 ra đời. Nghị định năm 1904 ban cho Ðaklak một tình trạng đặc biệt, gắn tỉnh này với Triều đình An Nam; rồi một nghị định sau đó đặt nó dưới quyền Khâm sứ Trung Kỳ. Từ đây nó thuộc quyền cai trị trực tiếp, được thực hiện từ năm 1913. Năm 1923, tỉnh Ðaklak được thành lập. Một công việc to lớn đã được thực hiện phục vụ sự phát triển của người Êđê: bộ Bi-Duê, sưu tập các luật tục, đã được Antomarchi dịch và nêu gương cho những việc làm tương tự ở các tộc người khác; cũng như việc lập trường Êđê ở Buôn Ma Thuột, ngôi trường đầu tiên - sau trường Kontum - phổ biến một học vấn tiểu học cho người Tây Nguyên. Những người đại diện của nước Pháp nói như sau: "Vai trò trước tiên của chúng ta là cứu lấy các chủng tộc này, nâng cao tình trạng bên trong của họ... Các chủng tộc "mọi" là có khả năng hoàn thiện; chúng ta không được xua đuổi họ, cũng không được phó mặc họ; bằng lòng ân cần và sự quả quyết của chúng ta, phải đạt được đến chỗ đem lại cho họ một sự tấn tới về hoàn cảnh vật chất và tinh thần..." (Pasquier, 1923). Sự ân cần đó nhằm chủ yếu vào người Êđê ở Ðaklak vốn "có một quá khứ lớn, còn giữ được nền tảng của một cơ cấu xã hội, tuân theo một truyền thống truyền khẩu ngày nay được pháp điển hóa,... phải đảm bảo một cách có hiệu quả các tiếp xúc của những người bên ngoài (từ đó có việc lập những lãnh địa đóng kín, như vùng Krong Nô),... đã chứng tỏ trong chính họ có những nhân tố cần thiết cho sự phát triển đời sống kinh tế và chính trị của họ."
Người Êđê là những người đầu tiên có những người giáo viên tại chỗ; họ là những người đầu tiên có phẩm hàm trong đội quân sơn chiến; những người đầu tiên có bằng y tá. Sự tiến bộ của họ so với các tộc người khác khiến người ta cần đến họ ở những nơi khác, làm giáo viên, lục sự... Và tình trạng đó, không được các tộc người láng giềng ưa thích, thấy mình thành người được đỡ đầu, khiến cho anh chàng trai trẻ Êđê "tân tiến" rất đỗi kiêu hãnh, đôi khi cả đối với những người đã đào tạo và đưa họ lên. Sau nhiều thế kỷ ngưng trệ, sự bột phát bùng nổ của người Êđê quá nhanh đối với họ, và lại làm chậm sự phát triển của các tộc người khác, trái với dự tính của những người đi tiên phong.
Chẳng hạn, hai mươi lăm năm sau cuộc "phóng" của người Êđê, những người Tây Nguyên ở Ðồng Nai Thượng vẫn chưa có bộ luật tục được pháp điển hóa cũng chưa có phương ngữ của mình được phiên âm, và người ta buộc phải cử những cán bộ chỉ huy từ Ðaklak đến đây. Có phải những tộc người khác không có "một quá khứ lớn", không thể "tìm thấy ở họ những nhân tố cần thiết"? Ðương nhiên có những tộc người dễ thích ứng hơn những tộc người khác; quả là mọi đầu óc không phải đều rộng mở như nhau. Nhưng kinh nghiệm cho thấy chỉ cần đến với một tập đoàn người nào đó với tình thương yêu chân thật để nhận được ở họ sự nỗ lực và ý chí vươn lên.
Những người Êđê hôm nay, Êđê, Enin, Koyong, Krieng, Mdhur, và tất cả gia đình Êđê đi ra từ "lỗ" Bang Adren, mà các bạn ra sức canh giữ, các bạn "từ ngàn xưa" đã giàu có một quá khứ vĩ đại, một hình thức văn minh cổ; sự vĩ đại của các bạn không phải ở chỗ phải đổi thay, mà là tiến lên trong khi vẫn luôn là chính mình. Sự phát triển nền văn minh của các bạn cũng giống như sự phát triển luật tục của các bạn: nay nó đã được viết ra nhưng điều đó không hề khiến nó thay đổi. "Ðấy là tục lệ từ ngàn xưa - như các người già của các bạn vẫn hát - từ tổ tiên; cái ấy không thể mới được làm ra gần đây, từ ngày hôm nay, đấy là tục lệ ngày xưa".
Klei aduôn möng knôë klei aê mng hdap ..........klei bhêan möng düm
Phần V
Người Stiêng đi săn
-
trong một xứ sở thú săn phong phú như rừng núi Stiêng, đương nhiên
người dân tận dụng nó cho bếp ăn của mình. Người Stiêng chẳng hề từ;
chẳng ngại nhọc nhằn trong chuyện này, họ giành phần lớn thời gian của
mình để đi săn và đánh cá. Họ chẳng hề có vũ khí hiện đại, nhưng sự khéo léo và tài năng của họ bù đắp cho họ nhiều đến mức không một người đi săn châu Âu nào có thể thi tài săn bắn nổi với anh chàng Stiêng mưu mẹo chỉ có mỗi cái ná. Cái ná này là vật quý nhất của họ, cho nên họ giành cho công việc chế tạo nó một sự chăm sóc thật chu đáo. Ðể làm ná, họ chọn lấy thứ gỗ vàng, cứng và đàn hồi mà họ nạo rất lâu, rồi sấy khô nhiều tháng trên giàn bếp. Cuối cùng họ phủ cho nó một màu gỗ anh đào rất đẹp, đánh bóng, chà xát. Nếu người Stiêng may mắn giết được một con thú trong lần đi săn đầu tiên với chiếc ná mới của mình, anh ta sẽ lấy lông và máu con thú trang trí lên đầu ná "Söna sa pai mat"("ná ăn nhiều thịt") anh ta bảo vậy.
Ðôi khi người Stiêng tẩm độc các mũi tên của mình; chất độc được dùng là nhựa một loại cây lớn có vỏ trắng. Họ chém một số nhát trên thân cây, hứng lấy nhựa trong một ống tre, và sau khi nấu rất lâu, tạo ra được một thứ thuốc dẻo ít ngày sau sẽ cứng lại. Chất thuốc độc có thể sử dụng nhiều lần này sau nhiều năm vẫn giữ nguyên hiệu lực. Nó vô hại đối người ăn thịt con thú bị bắn, với điều kiện phải nhanh chóng khoét tách thịt quanh chỗ vết thương ra.
Ná cầm tay, tên đựng trong một cái bao bằng tre, người thợ săn lên đường đi tìm con mồi. Khi vừa thoáng nhìn thấy hay nghe thấy nó từ xa, anh lắng nghe gió để nhận ra phương hướng, vì kinh nghiệm lâu dài đã dạy cho anh rằng chỉ có thể đến gần con vật băng cách đi dưới gió. Nếu không có gió có thể nhận ra được, thì ngọn khói thuốc của anh sẽ khẳng định sự nghi ngờ của anh, hoặc nữa anh lấy con dao cạo nhẹ vào móng tay cho rơi xuống một chút bụi nhẹ mà độ chếch khi rơi xuống sẽ cho anh biết hướng gió. Sau tất cả những thận trọng đó, anh từ từ tiến lên từ lùm cây này sang lùm cây khác để tránh đánh động các giác quan của con vật đa nghi, mắt vẫn không lúc nào rời nó. Khi con vật vừa cúi xuống gặm cỏ, anh tiến lên một hay hai bước; nó ngẩng đầu lên để nhai, anh liền thụp đầu xuống tránh; khi nó bứt mấy cái lá cây gây một ít tiếng động, anh liền lợi dụng để tiến đến mỗi lúc một gần hơn. Kẻ này làm việc, thì kẻ kia nghỉ.
Bằng các chiến thuật đó, người thợ săn Stiêng tiến đến cách con vật mươi bước chân; anh chỉ bắn khi chắc ăn. Anh đuổi theo con vật bị thương hết sức nhanh. Máu đổ ra dẫn dường cho anh và cho anh biết tình trạng nặng nhẹ của vết thương. Mọi con vật, nhất là voi, khi bị trúng tên thuốc độc, luôn chạy về phía có nước, ao hồ hay sông. Ðấy là nơi nó đổ xuống nếu thuốc độc đủ mạnh và mũi tên đâm sâu. Ðôi khi mũi tên đâm trúng một bộ phận hiểm yếu và con vật gục ngay tại chỗ; người thợ săn chỉ còn việc kết liễu nó bằng chiếc xà-gạc, mà anh ta dùng để mổ thịt nó tại chỗ. Nếu con vật chỉ bị thương nhẹ, chạy được sâu vào trong một lùm cây, người thợ săn có nguy cơ mất hút con mồi, khi đó anh sẽ quay lại sau với đàn chó của mình để tìm dấu. Giống chó mọi, rất giỏi săn, thường được dùng để dồn con mồi. Khi người Stiêng đốt các lớp cỏ cao trong núi, bọn nai chạy tứ tung; đám chó đuổi theo và tìm cách dồn chúng xuống thung lũng nơi người ta đã đón sẵn; con vật bị săn đuổi, theo bản năng đâm bổ xuống nước và rơi vào tay những người thợ săn trang bị xà-gạc.
Chỉ với cái xà-gạc đơn giản của mình, người Stiêng chẳng hề sợ đi tấn công một con bò rừng cô độc to tướng; không hiếm khi thấy họ cắt cổ nó và trở về nhà với tảng thịt trên vai. Người Stiêng lướt qua các bụi rậm và các đám cỏ cao giống như những con rắn mà họ đã quan sát kỹ kỹ thuật; nếu cần họ bò đi rất lâu, và đến thật gần, họ giang tay phang cho con vật một vố mãnh liệt bằng cái công cụ-vũ khí của họ và chặt đứt một kheo chân của nó. Con bò rừng nhảy lồng lên dữ tợn và tiêu tốn sức lực trong một cuộc tẩu thoát vô vọng trên ba chân. Người thợ săn, mỗi lúc càng thêm hăng, bám sát con vật đang chạy trốn không cho nó được một giây ngừng nghỉ; anh lợi dụng lúc thuận lợi, chém tiếp kheo chân khác của nó. Bây giờ thì con vật đã thuộc về anh ta; mặc cho nó quỵ xuống trên hai chân trước, ngửng cao đầu, dáng đe dọa, phì những luồng hơi ra hai lỗ mũi, nó đành phải gục xuống. Anh chàng Stiêng chiến thắng chọc tiết nó, thui luôn, chén một bữa ngon tại chỗ và trở về nhà, tiếp tế cho người thân và báo tin vui cho cả làng.
Con mồi hạ được trong săn bắn bao giờ cũng tốn nhiều mồ hôi mệt nhọc hơn, còn con mồi bắt được bằng bẫy cũng chẳng kém ngon nên chẳng kém giá trị.Trong kiểu đi săn thứ hai này, người Stiêng cũng khéo léo như trong kiểu thứ nhất.
Loại bẫy thông thường nhất là một chiếc dáo dấu kín trong một bụi rậm và gắn vào đầu một cành cây lực lưỡng uốn cong được giữ bằng một cái cò vừa chắc vừa nhẹ. Một con thú nhỏ nhất, chạm phải cái cò, đủ làm cho chiếc dáo phóng vụt ra và đâm một phát khủng khiếp. Một sợi dây rừng nhỏ được buộc một đầu vào cái cò, đầu kia vào một cái cọc. Sợi dây rừng sẽ làm cho chiếc dáo phóng ra đó, được giăng ngang toàn bộ mặt đường, ngang tầm thân con vật định đánh. Nai, lợn rừng đi qua đó không thể không chạm vào sợi dây tử thần kia và ngọn dáo bao giờ cũng đâm xuyên vai nó.
Một loại bẫy khác tương tự được dùng để bắt loại thú bốn chân chuyên leo trèo; nó được ghép vào thân cây ngang tầm người đứng; một miếng gỗ đặt nghiêng, từ dưới đất lên cây, dùng làm một chiếc thang đánh lừa. Ở đầu cái thang ấy là một sợi mây có một nút thòng lọng. Trên chiếc nút ấy có một cái que nhỏ đặt ngang dùng để giữ cái cò của bẫy. Khi cò lật, nút thòng lọng sẽ siết cổ con vật, vì miếng gỗ nặng dùng làm thang kéo mạnh nó xuống phía dưới.
Ở vùng người Stiêng còn có một loại bẫy khác, kỳ lạ nhất trong các loại bẫy ta có thể gặp. Trong xứ sở hoang dã này, thường có nhiều khu rừng thưa; ở đây, trên hàng chục cây số, người Stiêng bố trí một rào ngăn gồm một loạt những chiếc bẫy mang những khối đá nặng sẽ đổ xuống khi chạm vào cả một hệ thống đòn bẫy phức tạp. Người thợ săn chỉ cần ngồi đợi sẵn trên cây, chờ cho con vật chạm bẫy sẽ bị đè nát.
Sau mùa thu hoạch, khi các mang cung không còn bẫy được thú nữa, và vào cuối mùa khô, khi các loài thú hoang đi tìm một ít cỏ non hay một ngụm nước, người Stiêng vẫn còn tiếp tục đi săn, nhưng bây giờ là bên các ao hồ; đây cũng là thời kỳ bắt đầu công việc đánh cá.
Khi mặt trời vừa lặn, tất cả các loài thú ở quanh đều chạy về các nơi có nước. Trâu thích uống nước và đầm mình; bò, nai, lợn rừng lẫn lộn ở đây. Không đủ chỗ cho tất cả, chúng đánh nhau, những con yếu hơn phải rút lui rồi trở lại. Người Stiêng ngồi nấp trên một cây nhỏ; anh ta bắn con vật nào anh ta có thể. Nhưng, thông thường, hổ cũng rình mồi cho phần nó. Nên đã có lần một người bắn được một con thỏ, sắp đưa tay nắm lấy, bỗng kinh ngạc thấy một con báo cũng rình chính con vật đó, nhảy chồm ra và củm mất con mồi trong chân anh ta.
Dù các ao nước năm nào cũng bị khô cạn, đến mức chỉ còn một mặt đáy nứt nẻ, chúng vẫn còn giữ được một số lượng nhất định những con cá nhỏ hằng năm lại tạo ra thế hệ mới. Người Stiêng cho rằng trứng cá được lưu giữ trong đất.
Ðến giữa mùa mưa, khi các vùng bằng ngập đầy nước, ta thấy từng bầy những con cá to tướng, có khi nặng đến cả trăm kilô, theo các dòng sông kéo lên. Người Stiêng, trang bị những chiếc giáo bằng tre, đắp những con đập để ngăn không cho cá quay xuống, rồi đuổi theo đâm chúng bằng giáo. Một ngày, một đôi bò vất vả lắm mới kéo nổi hai mươi lăm con cá như vậy.
Những sản phẩm săn bắn và đánh cá đó là món ăn cần thiết, những ngày đói kém, khi thiếu gạo. Nếu cuộc săn buổi sáng không có kết quả, thì buổi chiều lại phải ra đi ngay để có bữa ăn tối; ngày hôm sau lại lên đường; cứ thế, suốt nhiều tháng. Bắt được hai hay ba con nòng nọc mỗi ngày chẳng hề làm cho kẻ đang đói nản lòng. Khi cần, mãi đêm người ta mới về; và nếu chỉ bắt được mỗi con cá, thì đó sẽ là phần giành cho đứa con.
Người Mạ dệt vải và trao đổi - Vùng đất của tộc người Mạ rộng mênh mông, nhưng mật độ dân số thấp, vì mỗi làng chỉ có đôi ba căn nhà. Về mặt thể chất, người Mạ là những người Tây Nguyên "nguyên gốc"; có thể nhận ra họ qua hàng nghìn dấu hiệu khác biệt của tộc người họ: những khúc ngà voi to tướng đeo trên các dái tai căng ra, những chiếc ống điếu kếch xù, răng cưa đến lợi (việc làm rất đau đớn, nhưng không bắt buộc; khi người ta tự hào là người Mạ, người ta sẵn sàng chịu đựng). Ðàn ông búi tóc như đàn bà; một chiếc lược bằng sừng trâu, nạm chì, cài trên mái tóc, khiến người đàn bà thêm có chút gì đó gợi nét Tây Ban Nha. Cũng như vây, có thể nhận ra ở người Mạ một tinh thần đẳng cấp rất riêng biệt. Từ cuối vùng Êđê cho đến đường 20, họ họp thành một nhóm người vừa phân tán vừa thống nhất, trong khi đó, chẳng hạn ở người Srê không hề có đơn vị cao hơn làng. Họ tỏ ra thận trọng hơn đối với người lạ. Họ tỏ ra kiêu hãnh và không muốn chịu khất phục [1] ; ý kiến của họ kiên quyết và họ bày tỏ ra một cách liến thoắng. Tinh thần đoàn giới của họ không khiến họ không tỏ ra hung dữ với nhau; nhưng người ôn hòa nhất trong số họ bảo rằng nếu không có người da trắng, họ sẽ chém giết nhau.
Người Mạ khá khéo léo trong nghề rèn; họ tạo ra một loại sắt độc đáo. Trong khi chiếc xà gạc của hầu hết các tộc người khác có dạng hình thang, chế tác đơn giản và giống nhau, hình dáng xà gạc của người Mạ có hai mấu bén và nhọn ở hai đầu.
Người Mạ đặc biệt giỏi nghề dệt; trong nghề này, họ là bậc thầy và hàng hóa của họ là của hiếm trên thị trường Tây Nguyên. Ðàn bà dệt, còn đàn ông đi bán.
Người Mạ chỉ trồng lúa rẫy trên những đám rẫy mênh mông, ở đó họ còn trồng bông cùng với lúa. Và bông là món sinh lợi lớn hơn của họ Khi bông đã chín, họ hái về nhà, trải ra trên những chiếc nong lớn. Công việc của những người đàn bà bắt đầu; đó là một công việc lâu dài, rất lâu dài, trước khi làm ra được tấm chăn đẹp.
Khi rẫy không cần phải chăm sóc nữa, cây lúa đã đủ khỏe để tự phát triển hay khi cả nhà đã suốt lúa xong, tất cả đàn bà trong nhà đều lao vào việc làm bông, trong khi đàn ông lo cái ăn bằng các sản phẩm đánh cá ở sông Daa Dông, rất nhiều cá to.
Cũng giống như ở mọi nơi khác, bông hái từ rẫy về trước hết được kéo thành sợi. Ðàn bà và con gái dùng những chiếc xa và những chiếc guồng giống như những người thợ thủ công ở ta ngày xưa. Sợi vải gồm nhiều tao xoắn vào nhau, khiến cho vải dệt ra dày khít, chắc, ấm và không thấm nước.
Người ta dùng bông trắng là màu nguyên chất của nó hoặc nhuộm màu để làm tấm chăn cho phụ nữ hay các hình trang trí cho các tấm chăn và quần áo của đàn ông. Người Mạ biết tất cả các màu nhuộm chính: đen, xanh (có hai sắc độ) và đỏ. Các chất nhuộm đều là thực vật, bằng lá được giã ra hay vỏ cây nghiền nát và ngâm. Bông được nhúng vào chất nhuộm giữ được màu rất bền; nó chịu được giặt nhưng có hơi phai khi phơi nắng.
Sợi bông đã được nhuộm và phơi khô, là lúc bắt đầu một lao động kiên nhẫn tuyệt vời. Các cô gái nhỏ chuẩn bị mắc canh vải bằng cách thoạt tiên giăng sợi theo chiều rộng nhất của tấm dệt quanh những chiếc cọc cắm dưới đất. Những ngón tay khéo léo và nhỏ nhắn của các cô bé cứ chạy vòng quanh các cây cọc đó, dắt những sợi chỉ trắng, xanh hay đỏ; mười sợi trắng, một sợi xanh, ba sợi đỏ, v.v. Cái nắng chói chang, chiếu long lanh trên những chiếc lưng trần và bóng loáng cúi xuống căm cụi, khiến những sợi bông còn tinh khiết càng sáng ánh lên.
Công việc giăng sợi canh đó phải mất nhiều ngày. Khi đã đạt được độ cao theo ý muốn, nó được lấy ra khỏi các cọc và đặt lên khung cửi gồm hai mảnh ván cố định hai mút đầu của chiều rộng nhất. Công việc lúc này được tiếp tục trong nhà, ở một nơi giành riêng trong nhà sàn; Người ta bảo: "Phải làm thế thì vải mới tốt"; phải van nài lâu lắm người đàn bà Mạ mới chịu đưa khung cửi của mình ra cho người lạ xem.
Công việc dệt thực thụ được tiến hành trên chiếc khung cửi này: người đàn bà luồn con thoi qua các sợi canh song song đã được mắc hoàn chỉnh, đưa sợi ngang đan theo chiều hẹp của tấm vải. Việc đan từng sợi này được làm bằng tay. Ở đây nữa bộc lộ nghệ thuật của người thợ dệt làm cho các hình trang trí hiện lên trên tấm vải bằng cách chơi với các sợi màu, lúc đưa lên lúc cho lặn xuống. Từ những sợi chỉ khó xác định đan lẫn vào nhau, bà tạo nên một tấm dệt bền chắc, được trang trí đầy thẩm mỹ và trang nhã. Mắt mỏi đi khi dõi theo các hình vẽ cứ hình thành lên; các ngón tay mỏi tê khi đưa các sợi chỉ dồn vào nhau và đan chéo nhau. Một chiếc thước dài bằng gỗ được dùng để dồn chặt sợi ngang mỗi khi một đường sợi vừa xong.
Mỗi ngày tấm dệt thêm được vài xăng-ti-mét; một tấm chăn lớn phải mất hai tháng lao động. Người khách lạ mặc cả với một gia đình sống chủ yếu bằng món thu nghèo hèn này có biết cái giá của nó chỉ bằng một đồng công nhật khốn khổ? Người Tây Nguyên trả đắt giá hơn: một tấm chăn lớn màu trắng thông thường giá bằng một con trâu cái hay một chiếc ché cổ.
Một số làng hay một số vùng người Mạ có đặc sản vải bông riêng của mình: nơi này chuyên sản xuất áo choàng, nơi khác chuyên dệt chăn màu xanh; việc chuyên làm một loại sản phẩm riêng nào đó ở một vùng nào đó là "phong tục đã có từ ngàn xưa". Người Mạ phía Bắc, đến tận cuối vùng người Êđê, nổi tiếng trong nhiều tộc người; họ làm những chiếc chăn xanh, có hoa văn cực kỳ tinh tế, dùng để làm váy cho phụ nữ và làm khố thêu cho đàn ông, có những túp bông màu đỏ trang trí, là niềm tự hào của nhiều vị thủ lĩnh. Họ cũng dệt loại ao krok, một loại áo mặc trong truyền thống của người Tây Nguyên có hai đường khâu, không tay, thêu xanh và đỏ, hay đen và đỏ.
Những người ở cạnh đường 20 là chuyên gia dệt những tấm chăn lớn màu trắng, thêu xanh và đỏ, thường gồm hai tấm khâu chung lại với nhau. Họ cũng biết kỹ thuật dệt áo ao krok.
Những người Mạ sống cô lập, như những người ở Tömong, trong xứ người Raglai, cũng làm bông; đấy là truyền thống lâu đời của tộc người. Nhưng vải của họ thô hơn; vả chăng họ chỉ làm những tấm chăn tuyền một màu trắng và những chiếc áo mặc trong không có hoa văn. Trong khi những người Mạ nói trên sản xuất đại trà để bán, thì những người này chỉ dệt để dùng cho mình.
Việc làm rẫy rất bấp bênh, người Mạ thiếu gạo, phải sống bằng nghề dệt để trao đổi. Công việc trao đổi được tiến hành hoặc với người Việt ở chợ Di Linh, Blao hay Ðà Lạt, hoặc với người Tây Nguyên ở các tộc người khác, đặc biệt với những người sản xuất lúa gạo. Khi những người đàn bà đã hoàn tất công việc vất vả của mình, đàn ông mang vải trong những chiếc gùi, thường giấu những tấm đẹp nhất xuống dưới, để chỉ giới thiệu trước những thứ hàng kém phẩm chất hơn. Ðôi khi một vài người đàn bà đi theo những cuộc buôn bán đó. Nếu người Mạ cần muối và cá, họ sẽ đi bán chăn của mình cho người Việt, những người Việt này lại đem bán lại cho những người Tây Nguyên khác đến mua ở các cửa hàng của họ. Chợ Blao tập họp sản phẩm của các làng ở cạnh con đường lớn; chợ Di Linh thì ăn hàng của các làng ở Daa Dông; chợ Ðà Lạt thu hút người Mạ-Ja ở chân núi Liang Biang.
Nhưng cảnh tượng hấp dẫn nhất đối với các nhà dân tộc học, cũng như với nhà tâm lý học, là cảnh người Mạ kéo đi hàng đoàn mang sản vật vải bông của mình đi đổi lấy trâu và ché, xa đến mười hay mười hai "đêm đường". Lúc ấy là từng hàng vài chục người, mang những chiếc gùi lớn chất đầy thức ăn - và những tấm chăn đẹp ở bên dưới - lên đường và sẵn sàng đi mãi cho đến khi tìm được món lãi mong muốn ở các tộc người làng giềng. Khi thấy một ngôi làng, bên một dòng suối, họ đặt gùi xuống đất, nghỉ ngơi, tắm rửa, hút thuốc trong chiếc ống điếu to sù. Ðoàn người đã được dân làng trông thấy; những người thích chăn là những người đầu tiên đổ ra gặp những người "du khách buôn bán" này; việc mặc cả bắt đầu trên khoảnh đất bỏ không và bằng những lời lẽ mơ hồ. Khi sự vụ đã bắt đầu rõ ràng, những người Mạ được mời vào trong làng; ở đấy họ tìm được thức ăn và nơi trú chân; một ché rượu ngon sẽ thu xếp những điều kiện mở đầu. Bấy giờ người Mạ mới quyết định đưa hàng của họ ra; thông thạo phong tục và biết cách nhận những tấm chăn có giá trị, những người già làng sục ngay vào đáy gùi. Người Mạ xem xét chiếc ché được đề nghị đổi; họ lật đi lật lại bên này bên kia và nhận ra rất nhanh nó có đúng là loại cổ, tiếng vang có tốt, màu sắc có thật không, tai ché có đúng kiểu thời bấy giờ không; họ cũng thạo việc đánh giá một con trâu, buổi chiều, khi trâu được lùa về.
Trong khi đó, các bà và các cô gái nhỏ cứ mê mẩn đi vì những tấm chăn đẹp, đã coi như là tài sản của họ và thúc dục việc mua bán, mà vẫn bảo vệ lợi ích của gia đình, trong nhiều tộc người chính họ là người giữ tay hòm chìa khóa. Cuộc mặc cả sôi nổi, chủ yếu là về nguyên tắc, bởi vì ít khi người ta tìm đánh đánh lừa về chất lượng của món hàng trao đổi: "trong chỗ bạn bè, không ai ăn cắp lẫn nhau". Chiếc ché được nhìn nhận là đúng hiệu, cách dệt tấm chăn được tán thưởng, việc mua bán đã xong, được ghi nhận bằng một ché rượu.
Bấy giờ người Mạ ra đi, tiếp tục cuộc hành trình của mình, dường như không hề nghĩ rằng đường về mỗi lúc một dài thêm ra, sẽ rất vất vả với bao nhiêu đồ lề ghè ché như thế này. Người ta lại thấy họ đi qua, lưng còng xuống dưới sức nặng của những chiếc ché được nhét cứng trong chiếc gùi hẹp, miệng ché thường cao lên đến tận búi tóc người mang, đang hối hả trở về.
Năm sau, họ lại sẽ trở lại.
Ký ức của một người Srê già - Cụ Nêm nghe tuổi tác đè nặng trên tấm thân còm cõi của mình. Những năm tháng xa xưa để lại cho cụ bao nhiêu kỷ niệm; trước khi từ giã cõi đời này, cụ kể lại cho con cháu, nếu không "chúng sẽ mất đi". Cùng với cụ sẽ tắt lặn đi cái thế hệ những người Tây Nguyên Xưa đã từng sống như vậy từ nhiều thế kỷ khi các cuộc xâm lấn dồn họ lên vùng núi này, từng sống như vậy từ những thời xa xưa. Truyền thống gìn giữ cho họ niềm tự do là những đứa con của Tự nhiên, trước khi họ trở thành nô lệ cho những đứa con của Tiến bộ.
Một đám con và cháu chăm chú và trân trọng lắng nghe câu chuyện kể của Người Già; tim chúng đập theo nhịp môi mấp máy của ông cụ đang kể và hát các kỷ niệm tuổi thơ của mình, lịch sử của một cuộc sống giống như bao nhiêu cuộc sống khác trộn lẫn vào cuộc sống của cụ. Một cậu bé trai nhìn chăm chăm vào khuôn mặt của cụ già đang dạy bảo thế hệ đang lên, Truyền thống được nối tiếp và làm giàu thêm lên, cũng giống như gia đình phát triển, lưu truyền và thích nghi.
Cảm thấy những ngày cuối cùng của mình đang đến gần, cụ già Nêm kể:
"Ký ức đầu tiên còn sống động trong ta là một cuộc du hành xuống vùng ven biển, cùng với cha ta, khi ta còn rất nhỏ... "Trước khi những người chủ da trắng đến, chúng ta phục vụ người Việt, bằng cách đi xuống hoặc là Phori hoặc là Bojai. Chỉ có người Việt là chủ nhân của đất đai và chúng ta rất sợ họ. Họ không lên đến trên này, trừ một đôi người lẻ tẻ, để buôn bán chút ít. Người da trắng đầu tiên đến xứ sở của chúng ta đi theo đường Dala; chúng ta gọi ông ta là uông Puê; ông ấy sống chung với chúng ta và theo cách của chúng ta. Ông có con với một người con gái của chúng ta và ông lo cho cả gia đình không phải làm ruộng nữa. Những người da trắng đến đây chỉ đi bộ hay dắt theo ngựa chở đồ đạc của họ. Sau uông Puê, có uông Chan cổ đỏ, rồi đến uông Pho về sau đã tự tử. Ðấy là người da trắng đầu tiên được chôn ở Di Linh, trong nghĩa trang ngày nay. Rồi đến uông Cuniac là người đã xây ngôi nhà lớn của Chính phủ.
"Chính ông người da trắng này đã lập những người thủ lĩnh lớn trong người Srê chúng ta, những người mà chúng ta gọi là uông Phu. Uông Phu đầu tiên là Det Dam Kraê; ông ta không biết tiếng Việt, cũng không biết tiếng Pháp, không biết đọc biết viết; nhưng ông ta có một bộ râu dài, và chính vì cái đó mà người ta đã chọn ông ta... "Do lao động của vợ ta và của ta làm ruộng, ta có được một ít tiền của; ta mua ché, trống, chiêng; ta tậu được một số của cải, để cho các ngươi, con ta, cháu ta, nếu các ngươi không làm lụng được tốt hay ruộng của các ngươi mất mùa, hay các ngươi bị đau ốm không làm được, các ngươi vẫn có các thứ để mà đổi lấy lúa gạo ăn; và lúc đó các ngươi sẽ nhớ lại người già này và các ngươi sẽ nói về ông ta khi ông ta đã chết..."
Cụ già đốt lại chiếc ống điếu. Ðêm đã khuya nhưng chưa phải là lúc cụ Nêm ngủ. Bọn trẻ vẫn ngồi nguyên trong tư thế như khi nghe chuyện của cụ già mà ngủ gà gật, chẳng chút ưu tư cho ngày mai... Cụ già đã lo việc ấy cho chúng. Nhưng cái ngày mai ấy không thuộc về ông cụ. Vài ngày sau, ông cụ hấp hối. Ðấy là một đêm đau đớn và là nỗi đau cô đơn. Cụ Nêm không còn ngồi trên chiếc chiếu những đêm thức bên bếp lửa ấm cúng, mà nằm tận xó nhà, trong bóng tối nơi cụ chờ chết, vật lộn với Caa đang lấy đi sự sống của cụ. Cụ nói mê; đối với cụ giấc mơ đang trở thành hiện thực mới, bây giờ. Cụ, con người đã làm việc cho đến giây phút cuối cùng, cụ thấy mình đang vào lúc cuối một ngày lao động cực nhọc. Ðôi ba câu nói đứt quãng khiến ta theo dõi được giấc mơ cụ đang trải qua đó: cụ vừa chặt củi và không sao vác nổi nữa, cụ chờ cho đêm đến... "Chẳng thể... ta chẳng thể vác nổi nó nữa... nặng quá chừng... chúng ta còn đang trên đường... trong rú... phải ở lại đây mất thôi... không thể về đến nhà được... Hãy nằm lại đây vậy, nằm lại đêm ở đây thôi... không thể... chôt chôt [2] ..."
Sự hiếu khách của người Raglai- (tường thuật của một cha cố truyền đạo). "Rời vùng người Srê, có ba người Tây Nguyên đi cùng, tôi tiến hành một cuộc thám hiểm vào vùng người Raglai. Chúng tôi không mang theo bất cứ thứ vũ khí nào, theo thói quen và để đề phòng: sườn phía đông của dãy Trường Sơn và vùng thấp còn chưa an toàn.
"Trước bình minh, chúng tôi đã lên đường, bị hay gùi trên lưng, gậy cầm tay. Ði ngược thung lũng sông Daa Röyam, về hướng Nam, chúng tôi bước nhanh chân. Người ta đã bảo tôi trong bốn ngày tôi sẽ có thể đi hết đoạn đường dự tính, nếu không lang thang. Tôi chẳng phải chờ lâu để biết thế nào là các chặng đường Tây Nguyên. Sau một giờ rưỡi đi trên các đồng ruộng, chúng tôi đến Dong Tu, làng Srê cuối cùng, nằm ở cuối một vòng cung núi. Chúng tôi không dừng lại, và vượt qua những đỉnh cao đầu tiên, chúng tôi đổ xuống cao nguyên Rölöm [3] . Chúng tôi dừng lại lần đầu tiên ở làng Tali-Törluh, ở đây chúng tôi được thết một bữa ăn thịnh soạn tại nhà người chủ làng.
"Tôi chuẩn bị chặng đường tiếp theo. Những người dẫn đường và khuân vác tự nguyện tham gia. Người giàu kinh nghiệm nhất đi đầu đoàn người, chúng tôi đi về hướng Ðông-Nam, đâm thẳng vào những dãy núi cao chắn khuất chân trời. Các con đường ở xứ này ít khi đi qua đèo; nếu một ngọn đồi chắn ngang đường đi, người ta cứ thế leo thẳng lên rồi đổ xuống bên kia. Ðường đi lên rất vất vả; nắng cháy cổ, đá cắt gót đế giày. Người dẫn đường mang cái túi của tôi, rất nặng vì chất đầy thuốc men dự trữ, cứ điềm nhiên như không; anh ta đi trên sườn núi này cứ như một người châu Âu đi trên một đại lộ. Bàn chân trần của người Tây Nguyên, ít cong, rất chắc chắn; nó cảm nhận được nền đất, mà mắt không cần quan sát; nó thích ứng, đặt đúng vào chỗ phải đặt, chỉ cần điểm tựa rất nhẹ. Trong lúc leo lên như thế này, đôi tay không bao giờ làm việc; thường chúng giữ chiếc xà gạc gác ngang vai, đằng sau gáy. Ðường dài; tôi có dịp quan sát kỹ luật đi đường của người Tây Nguyên: dừng lại nghỉ rất thưa và ngắn (và còn là do tôi đề nghị nghỉ sau hai giờ đi; tôi muốn xem anh ta có thể đi đến bao lâu mà không cần dừng nghỉ); lúc nghỉ anh ta vẫn đứng, không uống nước, chỉ hút một điếu thuốc. Không phải vì anh ta không thấy mệt; nhưng anh ta đầy nghị lực.
"Chúng tôi lên đến đỉnh Yapanang. Bên trái là núi Yang La; theo truyền thuyết, hai người sống sót trong trận Ðại hồng thủy đã tấp lên đỉnh núi đó. Chúng tôi cũng nhìn thấy, mờ xa, những rặng núi ven bờ biển Phan Thiết, tôi đoán sau những rặng núi đó là biển, chỉ nghĩ đến đã khiến tôi đỡ ngán những vách đứng liên tiếp nhìn đâu cũng gặp, những ngọn núi hoang vu, lởm chởm những rừng tre đùa trong gió như những cánh cửa nghiến kèn kẹt.
"Một cuộc đổ dốc chóng mặt suốt một giờ đồng hồ đưa chúng tôi đến một ốc đảo xanh rờn và mát rợi. Chuối, cau, những khu rừng ca hát, đôi căn nhà sàn bên một dòng suối trong veo: đấy là Chöroko, làng Raglai đầu tiên.
"Chúng tôi được dân làng chào đón bằng một niềm vui chân thật, họ vồn vã, giúp đỡ chúng tôi, tiếp đón chúng tôi, đãi chúng tôi ăn. Quả là phương ngữ của tộc người này khác với phương ngữ Srê nơi tôi đã quen sống; các bà không hiểu chúng tôi, nhưng đàn ông, quen đi đây đi đó, có thể nói thạo tiếng của chúng tôi. Chúng tôi được đãi một bữa tiệc; cơm, thịt gà, rau thơm, ớt có vị cam... và rượu cần làm món tiêu cơm. Tôi hiểu rằng người Tây Nguyên ở các vùng chung quanh nói là người ta đi đến vùng người Raglai để được ăn ngon. Hai người đánh chiêng, nhẹ nhàng hơn trên cao nguyên, du dương hơn.
"Tôi lợi dụng buổi tối nghỉ chân này để ghi nhật ký đi đường, dưới ánh sáng mệt mỏi của bếp lửa chập chờn đốt bằng gỗ thông. Xứ sở của người Raglai rất khác với vùng đồng ruộng; trong vùng ruộng có những vùng bằng rộng lớn ngập nước, đường đi lại dễ dàng, các làng cố định và ở gần nhau, thì ở đây chỉ thấy núi, mặt đất toàn cát và đá, người dân chỉ làm rẫy. Các làng, cô lập, nhỏ, hoặc vùi sâu trong thung lũng một dòng suối, hoặc treo lưng chừng một sườn núi dốc. Làng gắn với rẫy, nó di chuyển khi đất đã bạc màu. Tôi biết trường hợp một làng có thể nói theo cách nào đó là được nhân đôi lên: một làng cố định ở trong thung, là nơi ở của người dân vào kỳ rảnh rỗi, khi việc làm lúa đã xong, và một làng di động di chuyển từ đồi này sang đồi khác, tùy theo rẫy. Vùng Raglai rất bị ngăn cách; các con đường đi lại chỉ là những đường mòn hẹp, len lỏi trong rú, hết lên lại xuống; lối đi thay đổi theo sự di chuyển của các làng, trung bình cứ từ mười đến mười lăm năm một lần.
"Ðêm đã khuya; trong căn nhà sàn người ta vẫn còn bàn bạc. Bên ngoài một đống lửa được đốt ngay trên nền đất, trước lối ra vào; đấy là đám người Raglai "quá đông" kéo đến đón tiếp tôi, họ sẽ ngủ ngoài trời, căn nhà quá nhỏ không đủ chứa hết.
"Mờ sáng ngày hôm sau, khi trong căn nhà đã bắt đầu nhộn nhịp, các bà nhóm lại bếp lửa mà những người ngủ đã để tắt, tôi bước ra cùng với các người của tôi, hít thở không khí tươi mát buổi sáng mai ở xứ Raglai và làm lễ trên một chiếc bàn thờ bằng tre. Sau khi chăm sóc những người ốm, chúng tôi lại lên đường. Những người mang vác và dẫn đường nhiều hơn số cần thiết, nhưng đoàn người đông đúc rất sung sướng được đón chúng tôi ở xứ sở của họ ấy, khiến cuộc đi núi thêm vui. Ðường đi men theo một con suối lớn, chảy trong vắt, trên những hòn sỏi được mài nhẵn. Chúng tôi gặp làng Röhanglo trong một khu rừng thưa, bên bờ suối, vây quanh là những ngọn đồi đã được làm rẫy. Chúng tôi được đãi một ché rượu cần; tôi chăm sóc những người ốm và nhanh chóng ra đi, theo một con đường leo lên những ngọn đồi dốc đứng hơn. Lên đến một đỉnh, chúng tôi nhìn thấy núi Jödöng ở hướng Ðông-Nam; những người Raglai kể cho tôi biết rằng ngày xưa ở đấy đã xảy ra một trận đánh lớn giữa những người miền núi, do Bûmong chỉ huy, với người Việt từ vùng ven biển đến. Ở hướng Tây-Bắc, một ngọn đồi bị cạo trọc, cao hẳn lên hơn các ngọn đồi chung quanh: đấy là núi Me Boya; con lợn rừng truyền thuyết đi xây núi Liang Biang đã về chết chính tại đó.
"Men theo con suối mỗi lúc một rộng thêm ra, chúng tôi đổ xuống Yabö, một làng nằm ở cuối một vòng cung núi đẹp đến mê hồn. Có nước, có rừng, một ngôi làng giàu có và tươi tắn, mọi thứ để xây một trạm nghỉ tuyệt vời. Thiên nhiên hoan lạc đã biến Yabö thành một tiểu thiên đường. Nếu dân nơi này cũng hấp dẫn nữa, thì có đôi cơ may là tôi sẽ kéo dài chặng dừng chân tại đây, một nơi mọi thứ đều đẹp, sáng rỡ và tươi mát. Trên thực tế, người dân ở đây cũng hài hòa với khung cảnh, họ đón tiếp chúng tôi đặc biệt thân ái.
"Sau bữa ăn sáng với rau thơm và một loại lá mềm của xứ Raglai, một phần buổi chiều chăm sóc những người ốm, và phần còn lại để nói chuyện với dân làng, quan sát các kỹ thuật và phong tục của họ. Nhà ở của Raglai, toàn làm bằng tre, cao hơn nhà người Srê. Nó được chia ngăn: chính giữa là ngăn tiếp khách; hai phía là các ngăn gia đình, bên phải giành cho các vợ chồng già, bên trái là các cặp vợ chồng trẻ. Như vậy tránh được chuyện cãi cọ. Người Raglai là một bậc minh triết. Cũng giống như ở vùng Srê, người đàn ông đến cư trú bên phía bố mẹ vợ: người đàn bà sở hữu của cải.
"Mái nhà của người Raglai, lợp bằng rösui, bền gấp ba lần mái tranh của người Srê. Lợn không được nuôi dưới nhà sàn mà trong một chuồng riêng, sạch sẽ hơn nhiều. Người Srê tập trung mọi thứ, người và súc vật, bên trong hay dưới nhà sàn: người ta bảo đấy là do sợ trộm. Có thể tin là người Raglai ăn ở hay hơn. Ngược lại, kho lúa lại thường để trong nhà, hoặc ngang tầm sàn chung, hoặc trên một loại gác, có thể làm được trong loại nhà mái và vách cao này.
"Phía trước nhà sàn, một khu vườn rào trồng đủ thứ cây ăn quả: chuối, dứa, đu đủ, cà chua...; cả trầu, törneng (cho người ta lấy vỏ nhai với trầu). Rừng ở gần ngay đó có đủ loại tre, dùng để làm nhà và các đồ vật khác nhau. Tôi còn nhận thấy người Raglai không dùng những chiếc ché mà dùng những ống tre dài có mắc ở một đầu, hoặc những chiếc gàu để mang nước.
"Tính người Raglai hiền lành, không bị nền văn minh "làm hư hỏng" như người Srê. Lòng hiếu khách của họ không ai sánh bằng. Khi đã tin cậy, họ cởi mở và nói nhiều. Rất thích giao du, họ sẵn sàng đi đây đi đó; họ có nhiều quan hệ với các tộc người láng giềng.
"Ðêm xuống và buổi thức bên bếp lửa bắt đầu. Ðàn ông họp nhau quanh ngọn lửa, bàn tán, đốt thuốc trong các ống điếu. Hai người đánh chiêng, quay lưng vào nhau, đánh chiêng cổ theo nhịp. Những người già hát các bài ca truyền thuyết, đối đáp nhau; tôi nhận ra được các giai điệu và thậm chí cả ngôn ngữ thiêng; các truyền thuyết cũng là các bài thơ: người Tây Nguyên hát... Gà gáy đã báo sáng; nhưng ở Yabö hiếu khách tiếng nhạc vẫn không ngừng."
Rừng Cil - Cũng như từ Mọi là một từ ngữ của người Việt dùng để chỉ những người "dã man": ở miền núi và cao nguyên, từ Cil là một từ ngữ của người Tây Nguyên dùng để chỉ những người thua thiệt nhất trong những người Ðông Dương, những người Mọi mạt hạng đến mức người ta thậm chí không thể nói họ được coi là một tộc người. Và cả hai cách gọi ấy đều có ý khinh miệt. Ðối với người Mạ, người Srê, người Noang, v.v, người Cil cũng giống như người Mọi đối với người da vàng... Ngày xưa người Hy Lạp gọi là những người Barbaroi. Giá trị của mỗi con người bao giờ cũng là tương đối so với nhận định của những người kiêu hãnh hơn.
Ta gặp người Cil từ những vùng cao đầu tiên của Nam bộ cho đến biên giới phía Bắc của Tây Nguyên, bao giờ cũng là ở trên núi, tại những nơi rất khó leo tới, không bao giờ ở trong các thung lũng hay trên các cao nguyên. Người ta không thể thật sự gọi đó là một tộc người; những người Cil ở vùng trên Blao, ở Brah-Yang, ở Liang Biang chỉ có điểm chung nhau là tình trạng khốn khổ cùng cực của họ. Họ nói những thổ ngữ khác nhau tùy theo từng nơi, chịu ảnh hưởng mạnh phương ngữ của các tộc người trên cao nguyên mà họ tiếp xúc. Cũng không thể nói đến làng, bởi chốn cư trú của họ thông thường chỉ có một nhà sàn duy nhất. Những người Cil khác ở cách đó đến ba hay bốn tiếng.
Rú và rừng rất quen thuộc với người Cil. Người lạ không khỏi ngạc nhiên khi băng qua những khu rừng hoang dã của Tây Nguyên, họ bỗng khám phá ra một ngôi nhà sàn của người Cil trong khu rừng mà họ cứ ngỡ còn nguyên sinh. Các sườn ngọn Brah-Yang phủ đầy cỏ đến lưng chừng núi, tiếp đó là tua tủa những cây khổng lồ nối liền với nhau bởi một mạng dây leo to tướng không nhìn thấy đầu mút ở đâu cả, lẫn với những chùm rễ gió: đấy là phần đất giành cho người Cil. Nhưng họ là những người tiều phu tuyệt giỏi: trang bị chiếc xà gạc (một thứ xà gạc rất nguyên thủy, không có khâu bịt cán) và chiếc rìu, họ dọn sạch những diện tích đáng kể, không thèm nhìn đến cỡ lớn của thân cây mà họ hạ. Ðàn bà và trẻ con chặt những cây nhỏ và dây leo trước; một hay hai phát thật trúng là đủ rồi, không cần phải chặt đứt hẳn. Ðàn ông sẽ đến đốn tiếp những cây to, khi đổ sẽ kéo theo tất cả. Lửa sẽ hoàn tất nốt công việc. Rẫy của người Cil trồng lúa hay ngô. Sản phẩm đủ ăn một phần ba năm; thời gian còn lại, người Cil đi vay mượn và đói.
Họ cũng không có chút tiện nghi tối thiểu trong nhà. Trong các kiểu nhà Tây Nguyên, đây là loại nhà thấp nhất, tối tăm, bẩn thỉu nhất. Dê sống chung với người trong ngôi nhà ấy; đôi khi lợn giành những mảnh chăn với người. Bao giờ cũng có một chỗ nước gần nhà, chỉ dùng để nấu ăn: một người Cil đúng kiểu không bao giờ tắm; có thể dễ hình dung da họ màu gì vào kỳ đốt rẫy khi trong rừng chỗ nào cũng là than. Khi phải làm việc nhiều ở rẫy, người Cil rời căn nhà của mình, đến trú trong những căn lều khốn khổ làm bằng cành lá dày, ngay giữa rẫy; khói cay xè tuôn ra từ cánh cửa ra vào duy nhất.
Những ngày nông nhàn, người Cil làm việc ở "nhà mình"; họ là bậc thầy đan lát; gùi và thúng của họ được ưa chuộng và đem lại thêm cho họ một ít gạo. Họ cũng đi săn, bằng ná; nếu may mắn giết được một con nai, họ sẽ dùng da làm một chiếc trống mà họ đem bán cho các tộc người vùng thấp. Cuộc sống của họ rất hiểm nguy, một mình trong rừng và không thiếu gan dạ: một hôm một con báo bắt con lợn ở gần nhà; người chủ nhà ra đi một mình, chỉ mang theo chiếc xà gạc; anh ta gặp con báo; vậy là hết người đuổi theo báo đến báo đuổi theo người; khi anh ta đã chọn được vị trí tốt, anh phang cho con thú một vố bằng vũ khí của anh vào đúng giữa đầu, con báo cắn lấy lưỡi xà gạc đến gãy cả răng, rồi ngã gục xuống.
Sức chịu đựng và sự khéo léo của người Cil khiến họ đầy tự tin về mặt thể chất: giương chiếc ná nhỏ của mình lên, họ ngắm một lưỡi dao đặt cách mười bước; mũi tên bắn đi bị lưỡi dao chẻ làm đôi theo chiều dọc.
Sự dai sức trong chuyện đi đường của họ đã thành truyền thuyết; đấy là một con sơn dương bất chấp mọi qui luật thăng bằng. Nếu họ muốn gặp những con người khác những người ở trong căn nhà của họ, họ phải leo núi nhiều giờ, và thường là chẳng có đường sá gì cả vì chỗ cư trú của họ di chuyển luôn. Họ lao đi vững vàng và gấp gáp trên những đống đá lổn nhổn, những tảng đá to tướng trơn trợt vì rêu, trong những khu rừng muôn đời ẩm ướt, leo qua những rễ đa dựng đứng như những bức tường, vượt qua những vực thẳm không biết đâu là cùng trên những thân cây nhún nhảy; và bao giờ cũng trong một bóng tối lạnh buốt, vì các cây to ngăn không cho chút ánh nắng nào rọi được tới nền đất. Trong những dãy núi này, mọi thứ đều đượm màu đêm và bốc mùi mùn. Rắn lẫn với dây leo, chim ghẹo người đi qua, những con khỉ, vô hình, rít trên các cành cây cao.
Ta hiểu sống trong một khung cảnh như vậy, chỉ có rừng già hoang vu là quen thuộc, đóng kín trong cô đơn tăm tối, quen cảnh khốn cùng, người Cil khó gần, không thích tiếp xúc và chậm tiến. Người Cil ở Brah- Yang chiếm cứ một vùng đất nghèo nhất Tây Nguyên; rừng già dày đặc buộc họ phải lao động khổ sai; độ dốc của sườn núi buộc phải nỗ lực nhiều hơn những nơi khác. Những người nguyên thủy khốn khổ đó, đen nhẻm bồ hóng và cáu ghét, không có ý thức về nhân phẩm của mình, sống chung với các loài vật và như các loài vật, tuy nhiên trong họ vẫn còn tỉnh thức một tinh thần nó khiến họ đôi khi có thể có những hành động dũng cảm đáng quý. Cảnh đời của họ là như vậy. Rừng già kinh hãi, bụi rậm dày kín, mùi ẩm mốc; nhưng giữa những thân cây thông to lớn khắc khổ, qua một lỗ thủng ở một bụi rậm đầy gai, ta nhận ra tận xa xa một vệt nhỏ sáng loáng, ánh bạc, trong suốt: bờ biển miền Trung, biển cả... Còn phải dạy cho họ biết nhìn, biết tìm cái điểm lý tưởng đó, giữa những thân cây thông cao lớn khắc khổ, sau một ngày lao động khổ sai.
[1] Cách đây không lâu một số làng vẫn còn không chịu nộp thuế.
[2]"... chết chết..."
[3] Rửlửm có nghĩa là rãnh xói
Nguyên Ngọc dịch
Nguồn: Vnthuquan
*****