Bên cạnh những chính thể có tính
cách đại diện cho toàn thể cộng đồng Việt Nam thì cũng có nhiều thực thể
chính trị được thừa nhận hoặc vô thừa nhận ra đời tùy bối cảnh lịch sử.
Những thực thể này hầu hết không tồn tại lâu nhưng ít nhiều đóng góp
cho sự phát triển của tiến trình lịch sử Việt Nam, và trước nhất chúng
ta thấy rằng, việc đánh giá kết cấu chính trị – xã hội Việt Nam phải dựa
trên cái nhìn đa diện chứ không thể đứng ở hệ quan điểm này bài xích hệ
quan điểm nọ.
1. Vương quốc Sedang (1888 – 1890)
Từ thế kỷ XIX trở về trước, Tây Nguyên
còn là miền đất hoang sơ, nơi cư trú của nhiều bộ lạc gốc Mã Lai – Đa
Đảo và chưa bao giờ đạt tới trình độ văn minh. Từ năm 1858 khi liên quân
Pháp – Tây Ban Nha nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) thì các
nhà thám hiểm hoặc truyền giáo Pháp mới bắt đầu tìm cách chinh phục Tây
Nguyên, nhưng hiệu quả rất ít bởi sự cách trở về ngôn ngữ cũng như phong
tục tập quán. Đến năm 1888, một cựu nhân viên ngân hàng người Corse tên
là Marie-Charles David de Mayréna (1842 – 1890) đã mua chuộc một số tù
trưởng để thành lập tại vùng đất ngày nay là Dakto một quốc gia có tên
là Vương quốc Sedang (Royaume des Sedangs). Đây thực
chất là một liên minh các bộ lạc lớn ở khu vực ngày nay là
Kontum, Mayréna đặt cho kinh đô vương quốc là Marie Peleï (tiếng Mã Lai :
Làng Marie) – nay là buôn Kongu (xã Ngọc Wang, huyện Đắk Hà,
tỉnh Kon Tum). Cư dân chủ yếu của Vương quốc Sedang là người Bahnar
và Sedang (từ Sedang là đọc trại của từ Cà răng). Bản
thân Mayréna tự xưng là vua Marie Đệ Nhất, ấn định Hiến pháp vương quốc,
đồng thời thiết lập hệ thống biểu trưng (quốc kỳ và quốc huy, hiệu kỳ
và huy hiệu hoàng gia), thậm chí đã kịp in tiền và tem (được sản xuất
tại Pháp). Tuy nhiên, mục đích thực sự của Mayréna khi thiết lập vương
quốc chẳng qua để ngã giá với các nước thực dân Tây Âu (vốn đang khát
thuộc địa và thị trường tiêu thụ hàng hóa) ; Mayréna trực tiếp đi giao
thiệp với đại diện các chính phủ Anh, Pháp nhưng việc thương lượng đổ
bể. Sau đó, ông sang Bỉ tìm mua vũ khí (với giao hẹn chia sẻ nguồn tài
nguyên thiên nhiên) nhằm đoạt lại quyền kiểm soát vương quốc nhưng bị
hải quân Pháp chặn bắt tại Singapore (với lý do buôn lậu). Do không tìm
được đường trở lại Tây Nguyên, Mayréna bỏ sang Malaysia, kết hôn và định
cư trên đảo Tioman cho đến khi mất (11 tháng 11 năm 1890). Vương quốc
Sedang chấm dứt sự tồn tại và những vùng đất của nó nhập vào Liên bang
Đông Dương, dù sao việc ra đời quốc gia này đã mở đường cho sự truyền bá
Công giáo, Tin Lành giáo vào cộng đồng Tây Nguyên vốn còn ở tình trạng
nguyên thủy.
Quốc kỳ Vương quốc Sedang hình vuông, nền
lam với chữ thập trắng ở chính giữa, bên trong chữ thập còn có một ngôi
sao năm cánh màu đỏ.
Mã màu : #0055A4, #FFFFFF, #EF4135
2. Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ (1946 – 1948)
Trước khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng
Minh (14 tháng 8 năm 1945), khu vực ngày nay là Đông Nam Bộ và Tây Nam
Bộ được gọi chung là Nam Kỳ, hưởng quy chế lãnh thổ tự trị trong khối
Liên bang Đông Dương (tương tự Bắc Kỳ và Quảng Châu Loan). Ngày 23 tháng
9 năm 1945, quân đội Pháp trên danh nghĩa Đồng Minh quay trở lại tiếp
quản Sài Gòn (tuân thủ Hiệp ước Yalta) rồi dùng vũ lực trấn áp toàn
miền. Các tổ chức chính trị (Đông Dương Tự trị Đảng, Việt Nam Tân Dân
chủ Đảng, Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng…) và trí thức Nam Kỳ đồng loạt
lên tiếng yêu cầu chính phủ Cộng hòa Pháp trao quyền tự trị cho xứ này –
điều đó cũng có nghĩa là, người Nam Kỳ bấy giờ không có ý muốn gia nhập
chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 2 năm 1946, Ủy viên Cộng hòa
Jean Marie Arsène Cédile quyết định thành lập Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ
(Conseil consultatif de Cochinchine) với 12 ủy viên (4 người Pháp, 8
người Việt Nam). Đến ngày 31 tháng 5 cùng năm thì Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ
đổi tên thành Hội đồng Nam Kỳ (Conseil de Cochinchine) với 42 ủy viên.
Quan điểm của Hội đồng là liên đới mọi cá nhân hoặc tổ chức đối lập với
Việt Minh thành một khối. Ngày 27 tháng 5 năm 1946, Cao ủy Đông Dương
Georges Thierry d’Argenlieu đơn phương tán thành việc thiết lập một
chính thể lấy tên là Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ (République
autonome de Cochinchine), thủ phủ đặt tại Sài Gòn. Ngày 1 tháng 6, một
cuộc meeting nhằm ra tuyên cáo của tân chính phủ đã diễn ra tại khu vực
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn. Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ hưởng quy chế ngang hàng
với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – tức là tự trị trong khuôn khổ Liên bang
Đông Dương thuộc Pháp.
Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ là một chính thể
đại nghị chế, đứng đầu trên danh nghĩa là Cao ủy Đông Dương, quyền điều
hành thuộc về Thủ tướng và Nội các. Chính thể này thành lập giữa lúc
tình thế chính trị Nam Kỳ diễn biến phức tạp, các phe phái đua nhau cát
cứ và trong nội bộ chính phủ thì có sự chia rẽ. Chỉ trong 3 năm
(1946-1947-1948) đã có 3 Thủ tướng thay phiên nhau chấp chính : Nguyễn
Văn Thinh (tự sát ngày 10 tháng 11 năm 1946), Lê Văn Hoạch, Nguyễn Văn
Xuân. Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ thực chất là một chính thể thành lập vội
vã, kết cấu chính quyền chưa hoàn chỉnh và cũng không nhận được sự tán
thành của đông đảo quần chúng. Sau Thỏa ước Élysées (được ký kết bởi
Tổng thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại) và một cuộc biểu
quyết tại Quốc hội Nam Kỳ, ngày 2 tháng 6 năm 1948, Cộng hòa Tự trị Nam
Kỳ giải thể, lãnh thổ của nó sáp nhập trở lại với Bắc Kỳ và Trung Kỳ để
sang năm 1949 thì chính thể Quốc gia Việt Nam ra đời.
Quốc kỳ Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ là lá cờ
vàng ba sọc lam, tỉ lệ 2/3 với nền vàng và năm sọc ngang – hai sọc trắng
chen giữa ba sọc lam. Ba sọc lam tượng trưng cho ba dòng sông lớn chảy
tràn trên đất Nam Kỳ : Đồng Nai, Tiền Giang, Hậu Giang. Hiện nay, nguồn
tư liệu về lá cờ này ở không nhất quán : Có tài liệu nói rằng, giữa ba
sọc lam là hai sọc trắng – nhưng cũng có tài liệu khẳng định giữa ba sọc
lam là hai sọc vàng. Chi biết rằng, đương thời báo giới giễu nhại nó là
“cờ sốt rét”.
Mã màu : #FFFF00, #0055A4, #FFFFFF
Hiệu kỳ xứ Nam Kỳ thuộc Pháp (1867 – 1945) :
Mã màu : #FFD700, #000000
3. Sip Song Chau Tai (1948 – 1955)
Từ xưa, vùng Tây Bắc là địa bàn cư trú
của nhiều dân tộc thiểu số di cư từ cao nguyên Vân Quý (Trung Quốc),
nhưng mạnh nhất và giữ vai trò thống trị lâu nhất là người Thái (hình
thành trong khoảng thế kỷ VII – XIII). Suốt từ thế kỷ XIII đến nửa đầu
XIX, các chúa Thái vừa lo bình định trong ngoài vừa kiến tạo cơ sở vật
chất cho mình, nguồn lợi chủ yếu có được là do buôn bán thuốc phiện với
các khu vực lân cận. Do cương vực là nơi giao thoa của nhiều quốc gia,
các thủ lĩnh người Thái đã củng cố thế lực bằng chính sách ngoại giao
rất khôn khéo (lúc nhu lúc cương, khi liên kết với Ai Lao chống Đại
Việt, khi kết giao với Đại Việt chống Trung Hoa…) và trong nội bộ dân
tộc Thái cũng tồn tại những luật lệ không quá hà khắc, tỏ ra công bằng
giữa người nam và người nữ. Từ năm 1431 nổi lên thế lực của dòng họ Đèo
(thủy tổ là Đèo Cát Hãn) thuộc nhóm Thái Trắng (Táy Khao) – cũng từ
triều Lê sơ trở đi, các thủ lĩnh Thái được gọi là phìa tạo
(p’tao), được quyền thế tập, có lãnh địa và hệ thống chức sắc riêng,
những vẫn phải phụng cống xưng thần với triều đình Đại Việt. Đến khoảng
năm 1841, Đế quốc Xiêm La bình định xong các tiểu quốc Lào và trở thành
nguy cơ đối với quyền lực của các chúa Thái, dòng họ Đèo buộc phải khẩn
cầu sự trợ lực của triều Nguyễn. Đáp lại, Hoàng đế Minh Mạng kết hợp ba
châu Ninh Biên, Tuần Giáo, Lai Châu thành phủ Điện Biên và cử quân đội
người Kinh lên đó đồn trú.
Sau khi Đế quốc thực dân Pháp xâm nhập và
bình định xong Bắc Kỳ, vào năm 1890, Thống đốc Pháp tại Luang
Prabang là Auguste Jean-Marie Pavie (1847 – 1925) đã kiến nghị với chính
phủ Cộng hòa Pháp công nhận chúa Đèo Văn Trị là thủ lĩnh hợp pháp của
vùng Tây Bắc – từ lúc này được gọi là Sip Song Chau Tai
(สิบสองเจ้าไต, Mười hai xứ Thái). Triều Nguyễn cũng sắc phong Đèo Văn
Trị chức tri châu, được quyền thế tập để cai quản đạo Lai Châu (trước đó
gọi là phủ Điện Biên). Từ năm 1947, cuộc chiến tranh Đông Dương bùng nổ
và diễn biến phức tạp, với mục đích cô lập lực lượng Việt Minh, chính
phủ Pháp quyết định tách Sip Song Chau Tai khỏi Bắc Kỳ và ngày 1 tháng 1
năm 1947, Liên bang Thái Tự trị (Fédération Taï) được thành lập với thủ
phủ đặt tại nơi ngày nay là thị xã Mường Lay. Liên bang Thái là lãnh
thổ ủy trị của Liên hiệp Pháp, bao gồm 16 châu hợp thành. Điều thú vị
là, kết cấu chính quyền Liên bang Thái đảm bảo tam quyền phân lập rất rõ
: Đứng đầu xứ là lãnh chúa xuất thân từ dòng họ Đèo, cơ quan lập pháp
là hội đồng đại biểu các châu với nhiệm kỳ 4 năm, cơ quan hành pháp có
chủ tịch do các đại biểu tri châu bầu lên với 2/3 số phiếu và nhiệm kỳ 5
năm, tư pháp thì chiểu theo tập tục cổ truyền. Ngày 1 tháng 7 năm
1948, Liên bang Thái Tự trị đổi tên thành Khu tự trị Thái và sang năm
1949 thì trở thành một phần của Quốc gia Việt Nam. Vào ngày 29 tháng 4
năm 1955, Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hồ Chí Minh) đã ra Sắc
lệnh số 230/SL thành lập Khu tự trị Thái – Mèo với 17 châu trên cơ sở
Khu tự trị Thái và một số vùng trực thuộc Liên khu Việt Bắc. Năm
1962, Khu tự trị Thái – Mèo đổi tên thành Khu tự trị Tây Bắc và tồn tại
đến ngày 27 tháng 12 năm 1975 thì giải thể, quyền lực của các chúa Thái
cũng chấm dứt.
Cờ hiệu của Sip Song Chau Tai được ấn
định vào ngày 4 tháng 3 năm 1948, tỉ lệ 2/3 với sọc trắng chen giữa hai
sọc lam, chính giữa sọc trắng có thêm ngôi sao đỏ 16 cánh (ban đầu là 12
cánh). Kết cấu lá cờ dựa trên quốc kỳ Cộng hòa Pháp, màu sắc lấy từ
trang phục lễ hội của phụ nữ Thái Đen (Táy Đăm), ngôi sao 16 cánh tượng
trưng cho 16 châu liên minh. Trong khoảng từ 1946 đến 1949, lá cờ này
được sử dụng làm chiến kỳ của binh sĩ người Thái trong quân đội Pháp.
Năm 1954, khi quân đội Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ thì lá cờ này
chấm dứt vai trò biểu tượng.
Mã màu : #0055A4, #FFFFFF, #EF4135
4. Cộng hòa Tây Nguyên và Champa (1964 – 1965)
Sau khi chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt
Nam sụp đổ (2 tháng 11 năm 1963), nội trị Việt Nam Cộng hòa trở nên biến
động khôn lường. Chịu trách nhiệm lãnh đạo quốc gia lúc này là Hội đồng
Quân nhân Cách mạng, nhưng do thiếu kinh nghiệm chính trị cũng như cách
giải quyết các khúc mắc xã hội nặng nề tính cách nhà binh, những mâu
thuẫn sắc tộc, tôn giáo được dịp bùng phát. Bên cạnh đó là sự dính líu
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong các hoạt động
khủng bố, chia rẽ. Ngày 20 tháng 9 năm 1964, tại Phnompenh, dưới sự chủ
tọa của quốc vương Campuchia Sihanouk, Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của
các Sắc tộc bị Áp bức (Front Uni de Lutte des Races Opprimées, FULRO)
được thành lập, bao gồm :
- Mặt trận Giải phóng Champa (Front de Libération du Champa, FLC), còn gọi là FULRO Chăm, do Lès Kosem lãnh đạo.
– Mặt trận Giải phóng Campuchia Krom (Front de Libération du Kampuchea Krom, FLKK), còn gọi là FULRO Khmer, do Chau Dera làm đại diện.
– Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên (Front de Libération des Hauts Plateaux, FLHP), còn gọi là FULRO Thượng, do Y Bham Enuol chỉ huy.
– Mặt trận Giải phóng Campuchia Krom (Front de Libération du Kampuchea Krom, FLKK), còn gọi là FULRO Khmer, do Chau Dera làm đại diện.
– Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên (Front de Libération des Hauts Plateaux, FLHP), còn gọi là FULRO Thượng, do Y Bham Enuol chỉ huy.
Mục tiêu của tổ chức này là giành quyền
tự quyết cho các sắc tộc Thượng, Chăm, Khmer bằng bạo động vũ trang. Bởi
vậy, vào ngày 29 tháng 7 năm 1964, một toán 200 tay súng FULRO từ
Campuchia về chiếm giữ Buôn Briêng (Darlac) và kết nạp thêm 181 thành
viên. Ngày 15 tháng 10 năm 1964, đại hội các sắc tộc Thượng được triệu
tập tại Pleiku nhằm đề ra chính sách hỗ trợ cho đời sống người Thượng.
Đến ngày 17 tháng 10 cùng năm, một chính quyền có tên là Cộng hòa Tây Nguyên và Champa (République
des Highlands et Champa) được thành lập, thủ phủ đặt tại Pleiku. Chính
quyền này được lập ra với sự chấp thuận của chính phủ Hoa Kỳ, tự coi là
đại diện chính trị cho hai sắc tộc Thượng và Chăm song không có đường
biên cũng như hệ thống cơ quan hành chính, thực lực quân sự cũng không
đảm bảo. Sang năm 1965, Hội đồng Quân nhân Cách mạng cử đại diện là
Trung tướng Nguyễn Khánh đàm phán với các lãnh tụ FULRO. Ngày 2 tháng 8
năm 1965, một tuyên cáo chung về hợp tác Kinh – Thượng được công bố, nội
dung căn bản là :
– Kinh Thượng bình đẳng và đoàn kết thật sự– Tôn trọng phong tục, tập quán của đồng bào Thượng
– Đặc biệt nâng đỡ đồng bào Thượng theo kịp đà tiến bộ của Dân tộc
Tuyên cáo này cũng có thể xem như sự cáo
chung của một chính quyền không có thực lực. Trong hai năm tồn tại, Cộng
hòa Tây Nguyên và Champa sử dụng lá cờ như sau :
Mã màu : #0055A4, #EF4135, #009246, #FFFFFF
Nửa bên trái là ba sọc lam – đỏ – lục
trích từ hiệu kỳ FULRO, nửa bên phải là nền trắng với biểu tượng Hồi
giáo (trăng lưỡi liềm) ở chính giữa – màu đỏ và màu trắng phỏng theo
trang phục truyền thống của dân tộc Chăm. Tổng thể lá cờ toát lên ý chí
đoàn kết vì mục tiêu chung của các sắc tộc Thượng và Chăm.
5. Cộng hòa Champa (1965)
Ngay từ thời điểm thành lập, nội bộ FULRO
luôn dao động giữa chủ hòa và chủ chiến. Y Bham Enuol chủ trương giành
quyền tự trị cho Tây Nguyên bằng giải pháp thương lượng, đồng thời quan
tâm nâng cao chất lượng đời sống của các sắc tộc Thượng ; Y Dhon Adrong
chủ trương giành độc lập cho ‘Tây Nguyên bằng bạo động vũ trang. Sau khi
tuyên cáo về hợp tác Kinh – Thượng được công bố, chính quyền Cộng hòa
Tây Nguyên và Champa cũng giải thể, nội bộ FULRO mâu thuẫn dữ dội vì phe
chủ chiến không chấp nhận giải pháp này. Khoảng tháng 7 năm 1965, Mặt
trận Giải phóng Champa đơn phương thành lập tại Phan Rang (Ninh Thuận)
một chính quyền có tên là Cộng hòa Champa (République
du Champa), Lès Kosem (bấy giờ mang cấp hàm Thiếu tá Nhảy dù trong Quân
đội Hoàng gia Campuchia) tự xưng là Tổng thống và tuyên bố phục quốc
Champa. Tuy nhiên, chính quyền này không được công nhận và cũng không có
thực lực nên chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn.
Quốc kỳ Cộng hòa Champa là hiệu kỳ của Mặt trận Giải phóng Champa (tỉ lệ 2/3).
Mã màu : #0055A4, #FFFFFF, #EF4135
6. Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (1969 – 1976)
Biến cố Tết Mậu Thân (1968) đã khiến Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trở thành cái tên được công
luận quốc tế quan tâm. Để tận dụng sức hút đối với phong trào phản chiến
thế giới, Đảng Lao động Việt Nam chỉ thị Trung ương Cục miền Nam tổ
chức Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam Việt Nam tại chiến khu Tây Ninh,
tham dự Đại hội là các cá nhân và tổ chức Việt Nam Cộng hòa có cảm tình
với Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Tại Đại hội, từ ngày 6 đến ngày 8
tháng 6 năm 1969, hai tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam đã bầu ra một ban lãnh đạo chung – được gọi là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
– đứng đầu là kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (Chủ tịch lâm thời), trực
tiếp cầm quyền là Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (vốn là phân bộ phía
Nam của Đảng Lao động). Tuy mặc định toàn bộ vùng đất từ vĩ tuyến 17 đến
mũi Cà Mau là lãnh thổ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, nhưng thực tế lúc
này thuộc quyền quản lý của chính thể Đệ nhị Cộng hòa, thủ phủ của Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam là chiến khu Tây Ninh. Đến 30 tháng 4 năm 1975 khi
Việt Nam Cộng hòa cáo chung thì chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
dời về Sài Gòn. Từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976, Quốc hội
nước Việt Nam thống nhất họp khóa đầu tiên đã tuyên bố xóa bỏ khu DMZ
vĩ tuyến 17 và đặt quốc hiệu là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng
nghĩa Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
giải thể, Sài Gòn cũng được đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù có
sự tổ chức hành chính rất bài bản, song chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam chịu sự chi phối của Trung ương Đảng Lao động trong mọi quyết sách
chính trị – ngoại giao – quân sự và thực tế cũng tự coi là chính quyền
ủy trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cho nên Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
không đại diện cho bất cứ cộng đồng nào mà chỉ nên xem là giải pháp
chính trị của Đảng Lao động Việt Nam trong bối cảnh tương tranh Nam-Bắc.
Quốc kỳ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam là
hiệu kỳ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, tỉ lệ 2/3 với nửa trên màu đỏ
và nửa dưới màu xanh, chính giữa là ngôi sao vàng năm cánh. Lá cờ này
sao phỏng từ quốc kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nửa đỏ thể hiện miền Bắc
Xã hội chủ nghĩa, nửa xanh thể hiện miền Nam đang còn chiến tranh và
chưa hợp nhất, ngôi sao vàng thể hiện tinh thần đoàn kết của 5 giai cấp
chính yếu trong xã hội Việt Nam.
Mã màu : #CC0000, #FFFF00, #0099FF
MỘT SỐ HÌNH ẢNH
Lá cờ xứ Nam Kỳ (hình in trên bưu thiếp), sử dụng trong các lĩnh vực quân sự và thương mại.
Lá cờ xứ Nam Kỳ – hình in trên bưu thiếp chào mừng Hội chợ triển lãm quốc tế Paris (1900).
Lá cờ xứ Nam Kỳ (hình in trên vỏ hộp thuốc lá).
Lá cờ ba sọc xanh trên huy hiệu Vệ binh Cộng hòa Nam Kỳ (Garde Républicaine Cochinchinoise).
Lá cờ Sip Song Chau Tai trên huy hiệu.
Lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam – từ 1969 trở thành quốc kỳ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
Lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam do một tiểu đội trinh sát Hoa Kỳ tóm được vào ngày 6 tháng 2 năm 1968.