Tim thông tin blog này:

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

Số phận Lê Chiêu Thống và Đoàn tòng vong trên đất Trung Quốc

Kỷ niệm 223 năm Quang Trung đại phá quân Thanh
Đào Tiến Thi

Bất cứ ai, chỉ cần qua ghế nhà trường cấp 2, cũng đều biết chi tiết trưa ngày mùng năm Tết Kỷ Dậu (1789), Quang Trung cưỡi voi, áo bào xạm đen khói súng, tiến vào Thăng Long, kết thúc cuộc đại phá 29 vạn quân Thanh chỉ có 5 ngày, sớm hơn 2 ngày so với dự định (lúc khao quân ở Nghệ An ngày 30 Tết, Quang Trung hẹn ngày mùng 7 Tết vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng).
Nhưng có lẽ ít ai biết về số phận của ông vua phản bội Tổ quốc Lê Chiêu Thống và đoàn tòng vong của ông ta sau cuộc thua tan tác này. Chúng tôi xin lược qua 15 năm sống (và chết) nhục nhã (và phần nào đáng thương) trên đất Trung Quốc của họ.

Bài viết dưới đây tổng hợp từ Hoàng Lê nhất thống chí [i] (HLNTC), Bắc hành tùng ký (BHTK), có tham khảo thêm các giáo trình lịch sử Việt nam và từ điển mở Wikipedia. Trong số này đặc biệt chú ý là Bắc hành tùng ký, bởi nó là cuốn nhật ký của Lê Quýnh, nhân vật quan trọng nhất trong đoàn tùy tùng của Lê Chiêu Thống, ghi lại những ngày ông bị giam cầm trên đất Trung Quốc.
Cầu cứu nhà Thanh
Với khẩu hiệu phù Lê diệt Trịnh, sau khi lật đổ họ Trịnh, anh em Tây Sơn giao lại Bắc Hà cho vua Lê (1786), rồi rút quân về Nam. Vua Lê lúc ban đầu là Lê Hiển Tông, sau khi qua đời, Lê Duy Khiêm (Lê Duy Kỳ) được kế vị, hiệu là Chiêu Thống, năm ấy 21 tuổi.
Nhưng Chiêu Thống không đủ uy tín và tài năng để cai quản đất nước. Bắc Hà rơi vào loạn lạc, Lê Chiêu Thống phải hết dựa vào thế lực này đến thế lực khác, từ Đinh Tích Nhưỡng đến Nguyễn Hữu Chỉnh. Khi Chỉnh bị Võ Văn Nhậm diệt, Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Quảng Tây, Trung Quốc, cầu cứu nhà Thanh.
Nhân cơ hội ấy, quân Thanh do Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sỹ Nghị cầm đầu kéo sang. Ngay khi vào Thăng Long, chúng đã chẳng coi Lê Chiêu Thống ra gì. Vua ta phải hằng ngày vào chầu chực ở bản doanh của Tôn Sỹ Nghị để nghe lời sai bảo. Tuy vua Lê đã được phong Vương, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu Càn Long. “Ngày ngày sau buổi chầu, vua lại tới chờ ở doanh của Nghị để nghe truyền việc quân, việc nước. Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ vài chục người. Người trong kinh có kẻ không biết là vua. Hoặc có người biết, thì họ nói riêng với nhau rằng:
"Nước Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn Long, việc gì cũng do viên tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc?". Lại có hôm, vua tới yết kiến, Nghị không buồn tiếp, chỉ cho người đứng ở dưới linh các truyền bảo: "Hôm nay không có việc quân, việc nước gì. Hãy về cung yên nghỉ!" (HLNTC). Đối với quân lính và bọn người Hoa ở Việt Nam, thì y lại dung túng cho chúng mặc sức làm điều phi pháp. Vua Lê tuy biết sự tệ hại ấy, nhưng đã trót mời quân Thanh sang, chỉ sợ vì việc đó mà làm mếch lòng chúng, nên không dám nói gì.
Chạy theo tàn quân Thanh
Sau khi quân Thanh đại bại, Lê Chiêu Thống cùng gia quyến và các bề tôi trung thành lại chạy theo sang Trung Quốc, hy vọng cầu viện nhà Thanh một lần nữa.
Nhưng lúc này, tình hình đã khác. Quân Thanh, mà thực chất là quân 4 tỉnh gần Việt Nam (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu), sau những trận Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa,… đã trở nên khiếp sợ vua Quang Trung và quân Tây Sơn. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi quân ta đuổi chúng đến Lạng Sơn, đã nói phao lên rằng: “Sẽ giết hết rợ Hung Nô”. Do đó, ở đất Trung Quốc, “dân chúng lại càng nhốn nháo. Từ cửa ải Nam Quan trở về bắc, trai gái già trẻ, bồng bế dắt díu nhau chạy trốn, suốt vài trăm dặm, lặng ngắt không còn bóng người” (HLNTC). Tôn Sỹ Nghị bị cách chức, vua Càn Long cử Phúc Khang An là một người thuộc đội “cờ viền vàng”, được vua rất tin dùng, làm tổng đốc Lưỡng Quảng, thay mặt triều đình lo việc kinh lý với An Nam. Ở triều đình thì việc này giao cho Hòa Khôn (tức Hòa Thân, viên quan nổi tiếng tham nhũng nhưng lại được vua Càn Long tin dùng) trực tiếp phụ trách. Cả hai tên này đều không thích gì việc đánh Việt Nam.
Mặt khác, sau đại thắng, Quang Trung tìm cách hòa hiếu. Ông sai Ngô Thì Nhậm thảo thư gửi Phúc Khang An, nói rõ ta không có ý đánh nhau mà thực ra lỗi thuộc về Tôn Sỹ Nghị. An bày cho ta đưa vàng bạc đút lót cho Hoà Khôn. Khôn liền tâu với vua Thanh xin bãi việc binh, phong vương cho Quang Trung. Khôn nói: "Từ xưa đến nay, chưa có đời nào làm nên công trạng ở cõi Nam. Nhà Tống rồi nhà Nguyên, nhà Minh, rốt cuộc đều bị thua trận, gương ấy hãy còn rành rành". (HLNTC)
Ngô Thì Nhậm cho Nguyễn Quang Thực, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu, giả làm Quang Trung, sang yết kiến vua Thanh, dâng thêm hai thớt voi đực. Dọc đường, người Thanh phải phục dịch chuyển vận rất khó nhọc. Trong ngoài ai cũng biết là giả dối, mà không ai dám nói.
Đến Yên Kinh, “vua” Quang Trung (giả) được đón tiếp rất chu đáo (Càn Long không biết hay biết nhưng cố tình lờ đi?), được phong vương. Và như vậy số phận Lê Chiêu Thống đã sắp được định đoạt mà y không biết.
Bị ép gọt đầu gióc tóc
Trong khi ấy, Phúc Khang An giả vờ bảo Lê Chiêu Thống:
“Ngày xuất quân không còn xa, vương nên tự mình đem tả hữu liêu thuộc làm quân dẫn đường đi trước. Nhưng bây giờ nên gọt đầu gióc tóc, thay đổi quần áo giống như người Trung Quốc, để khi về Nam quân giặc không thể phân biệt được, thì công lớn mới có thể thành. Sau khi khôi phục nước nhà, bấy giờ sẽ lại theo như tục cũ. "Việc binh không ngại dùng cách xảo trá". Vương nên nghĩ tới chỗ đó.
Lê Chiêu Thống tưởng thật, vâng lệnh ngay, lại còn nói:
“Chúng tôi không giữ được nước nhà, may nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước phải ăn mặc như người Trung Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy còn có tiếc gì?” (HLNTC)
Thế là Khang An bèn làm một tờ biểu kín tâu với vua Thanh, nói rằng vua An Nam không còn có ý xin cứu viện nữa, vua tôi đều đã gióc tóc đổi đồ mặc, xin ở lại yên ổn trong đất Trung Quốc. Vậy xin bãi bỏ các đạo quân định đưa sang đánh dẹp phương Nam.
Lừa được Chiêu Thống rồi, Khang An còn chơi trò làm nhục ông vua lưu vong bằng cách bố trí cho Chiêu Thống chạm trán phái đoàn sứ bộ của Quang Trung, làm cho Chiêu Thống rất tức tối.
Sau đó Khang An lại tìm cách ly gián Lê Chiêu Thống với các bề tôi còn chút tinh thần dân tộc. Trong số bề tôi này, đáng chú ý nhất là Lê Quýnh.
Nguyên Quýnh đã từng theo Lê Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh năm 1788. Lúc quân Thanh kéo vào nước ta, Quýnh được dịp thả sức say mê tửu sắc, “ân oán riêng dù bằng cái tơ, sợi tóc cũng đều đền báo không hề sót” (HLNTC).
Khi vua chạy theo tàn quân Tôn Sỹ Nghị, Quýnh được giao ở lại để chiêu mộ lực lượng trong nước.
Tháng 5-1789, Khang An cho trát đòi bọn Quýnh sang “bàn việc nước”. An cho giải Quýnh loanh quanh, mãi tháng 9 mới cho gặp, nhưng rồi “việc nước” chỉ là ép Quýnh gọt đầu gióc tóc và đổi đồ mặc như người Thanh mà thôi. Quýnh cùng hiệp trấn Nguyễn Mậu Nễ, tri phủ Nguyễn Đồng, Trịnh Hiến, chỉ huy Lê (Doãn) Trị, hàn lâm viện cung phụng Lý Bỉnh Đạo, cả bọn thà chết chứ không chịu gọt đầu gióc tóc.
Quýnh và nhiều đồng chí của mình bị đi đày. Trong số này, Nguyễn Đồng bị bệnh chết ở châu Nam Ninh, Nguyễn Mẫu Nễ chết ở Liễu Châu.
Cuối cùng, Khang An cũng nói trắng với bọn Quýnh là thiên triều đã phong vương cho Quang Trung rồi, nay chẳng những nhà Thanh không kéo quân sang giúp nhà Lê mà bọn Quýnh cũng không thể nào về nước được nữa. Tốt nhất là ở lại Trung Quốc, An sẽ xin vua Thanh bổ dụng.
Nhưng Quýnh chối từ: “Lưu lại nội địa, không phải sở nguyện của chúng tôi. Vì lưu lại đây, thì bỏ việc nước không hỏi đến, ấy là bất trung. Bỏ cha mẹ không đoái đến, ấy là bất hiếu. Phụ những kẻ đồng tâm chết với nước, ấy là bất nghĩa. Lỡ lòng mong cứu khỏi đắm, chữa khỏi cháy, ấy là bất nhân. Vì nước mà đổi thành bán nước, ấy là bất trị. Liều mình mà trái lại giấu mình, ấy là bất dũng, mang đủ sáu điều đó, sao xứng được làm người? Trung Hoa tuy rộng, cũng không đất dung những đồ chó lợn ấy” (BHTK).
Quýnh bị đày đi Quảng Đông (có sách nói là Sơn Đông). Tháng 3-1790, nhân xa giá vua Thanh đi Đông tuần, Quýnh được gặp Càn Long. Càn Long bảo: “Chúng bay không vì sự thịnh suy mà tiến thoái, khá khen lòng thành giữ trung nghĩa. Trẫm không nỡ khép tội". Nhưng lại vẫn ép: “Chủ các ngươi đã xin yên ổn ở lại Trung Quốc, lũ các ngươi giốc lòng cùng theo, thì nên lập tức gọt đầu gióc tóc, đổi đồ mặc để chờ mệnh lệnh” (BHTK).
Nhà Thanh đưa Quýnh lên Yên Kinh. Tại đây chúng vẫn tiếp tục ép Quýnh gọt đầu gióc tóc. Quýnh vẫn chống lại. Quýnh thuyết phục bọn quan lại nhà Thanh rằng chữ trung mình đã không giữ được thì xin cho về phụng dưỡng mẹ già để vẹn chữ hiếu. Bọn chúng bảo: “Chúa các anh ở đây, mà các anh không theo, thế thì trung được sao?”. Và bố trí cho vua tôi gặp nhau.
Tại cuộc gặp, các quan nhà Thanh cố lấy lời khéo dỗ vua Lê bảo bọn Quýnh cắt tóc. Bọn Quýnh khóc, lạy mà nói rằng: “Bọn Quýnh sống làm tôi nhà Lê, chết làm ma nhà Lê. Ngoài ra thì không phải sở nguyện” (BHTK)..
Các quan nhà Thanh mắng: "Mệnh chúa anh, anh cũng không theo. Ấy há là đạo của kẻ làm tôi sao?" (BHTK). Quýnh trả lời: "Bổn phận kẻ làm tôi thờ vua vốn phải theo mệnh, nhưng cũng phải theo lẽ buộc đừng theo. Nếu có thể nhờ vậy mà không phục mệnh vua, thì ấy cũng là theo mệnh vua đó. Nay, cái mệnh bảo cắt tóc, ở miệng thì là mệnh, nhưng trong tâm thì không phải là mệnh. Bọn Quýnh nguyện theo cái mệnh trong tâm của chúa mình, kẻo chúa cũng bất đắc dĩ mới phải làm cái sự (các ngài) yêu cầu đó mà thôi" (BHTK).
Bọn quan nhà Thanh tiếp tục giam lỏng Quýnh. Cuối năm đó lại dụ Quýnh: “Cạo đầu thì vua tôi cha con sẽ đoàn tụ vui vẻ cùng nhau. Sao mà cứ một mực ngây ngốc, không chịu theo gần nhân tình đến thế?”. Quan bộ đường đề thẩm, chức thượng thư là Hồ Quý Đường, bảo rằng: “Các anh nếu không cạo tóc thì sẽ chết già trong ngục, chôn thây theo sở nhà tù. Cắn rốn (hối hận) sao kịp?” (BHTK).
Quýnh và ba người nữa tiếp tục bị giam. Đầu năm 1799, Quýnh lại làm tờ tâu:
“Chúa cũ là tôi con thiên triều. Quýnh là dân của chúa cũ, thì không những nghĩa và lý đáng phải tránh làm dân Nguyễn Huệ, mà tấc lòng tôi cũng không thẹn. Cúi xin trời che, đất chở, khí xuân nuôi, lòng bể chứa, bằng lòng cho bọn Quýnh về làm tên dân ở biên giới Lưỡng Quảng, được qua lại (đường ranh) buôn bán gần chỗ an trí. May chi được thăm viếng mẹ già và nuôi nấng, thì không còn điều gì oán tiếc. Nếu sức có thể đem gia quyến tới ở nội địa, thì cũng xin được tuỳ tiện mà làm..." Quan tả thị lang họ Hùng bảo: “Phải xin cắt tóc và xin cho ở cạnh doanh An Nam. Nếu không như thế, thì sẽ bị đưa an trí ở Nhiệt Hà. Các anh xin điều nào?”.
Bọn Quýnh lại trả lời như trước rằng:
“Xin thả ra để đem thân xác về. Được thế thì nguyện cắt tóc để tạ ơn trời. Nếu không được thế, thì xin giữ tóc để hợp lẽ trời” (BHTK).
Tuyệt vọng
Lại nói về Lê Chiêu Thống, trong thời gian ở Yên Kinh vẫn tiếp tục dâng biểu xin nhà Thanh cho viện binh về nước khôi phục nhà Lê. Nếu không được thì cũng cho mượn 2 châu Tuyên Quang, Hưng Hóa để xây dựng lực lượng, hoặc lẻn vào Gia Định cầu viện Nguyễn Ánh. Bọn quan nhà Thanh thì luôn tìm cách dối quanh để khất lần. Có lúc chúng bảo cho mượn đất Khâm Châu (Quảng Đông), có lúc bảo cho về Tuyên Quang. Có lần, bực quá, một tên dắt ngựa của vua Lê là Nguyễn Văn Quyên, phải chửi: “Bọn chó Ngô vô lễ, dám làm nhục vua ta”, rồi lấy gạch ở sân ném bừa vào bọn chúng. Đám quân lính giữ vườn nổi giận, xúm lại đánh Văn Quyên gần chết, đoạn bắt giam một tháng, Văn Quyên nhân thế bị bệnh mà chết.
Một người con của Càn Long biết sự tình của vua tôi Lê Chiêu Thống, có ý thương xót, liền khuyên Hòa Khôn lời lẽ phải chăng. Khôn tâu lại với vua, anh này liền bị đánh đòn, sau sinh bệnh chết. Từ đấy, vua Lê không còn dám nói đến việc xin quân cứu viện nữa, nhưng trong lòng uất ức khôn nguôi.
Mùa hè năm Nhâm Tý (1792), con đầu của Lê Chiêu Thống lên đậu rồi mất. Vua lo buồn sinh bệnh, thoi thóp nằm liệt không dậy được. Năm sau, bệnh nhà vua càng nguy kịch, rồi mất (Càn Long thứ 58, 1792), thọ 28 tuổi.
Ngày 11-10, niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh (1799), Thái hậu (mẹ Lê Chiêu Thống) cũng mất ở "Tây An Nam doanh". Vua Thanh cho chôn cạnh lăng Lê Chiêu Thống.
Ngày mồng 4-4 năm Gia Khánh thứ 5 (Canh Thân, 1800), bọn Quýnh được thả ra khỏi ngục, dời đi ở cách phía tây kinh thành mười hai dặm, tại Lam Xưởng, an trí ở doanh Hoả Khí ngoài. Đầu tóc, ăn mặc được phép tự do. Phần mộ chúa cũ, được phép thăm viếng. Quýnh liền làm một bài thơ, trình quan bộ Hình và quan coi ngục. Bài thơ có câu rằng:
Kéo tóc khôn đền mưa móc mới,
Ngoảnh đầu sợ phụ núi sông xưa.
Tuy nhiên khoảng tháng 7-1883 lại bị bắt lại.
Trở về cố quốc
Năm Giáp Tý (1804), lúc này triều Tây Sơn đã mất, Nguyễn Ánh lên ngôi vua. Nhà Thanh cho Lê Quýnh cùng các quan tòng vong được đưa di hài Chiêu Thống về táng ở quê nhà và cho tất cả các người bề tôi trốn theo đều được về nước. Các bề tôi mở quan tài vua Lê Chiêu Thống (đã quàn 12 năm) thì thấy da thịt đã nát hết, chỉ có trái tim không nát, mà sắc máu hầu như vẫn còn đỏ tươi! (chi tiết này ghi trong HLNTC, không rõ thực hư thế nào).
Khi di hài vua Lê đưa về đến cửa ải, có bà hoàng phi của vua là Nguyễn Thị Kim nghe tin, liền từ Kinh Bắc lên cửa ải để đón linh cữu. Ngay từ hôm ấy, hoàng phi tuyệt thực, hằng ngày vật vã bên linh cữu mà khóc lóc. Ngày 23-8-1804, di hài đưa về đến Thăng Long, các quan thay hài cốt vua Lê sang một chiếc tiểu khác, thấy trái tim vẫn còn y nguyên.
Tế xong, hoàng phi đến trước hương án khóc lóc thảm thiết, rồi sau đó, uống thuốc độc tự tử. Người khắp nước ta và người Trung Quốc đều khen là bậc “tiết nghĩa”.
Các bề tôi trốn theo vua Lê, về sau, vào năm Tự Đức thứ 14 (1860), được nhà vua cho lập đền thờ ở phía tây thành Thăng Long, tại phường Thuỵ Chương, thuộc huyện Vĩnh Thuận. (Có tài liệu cho là ngõ 124, đường Thụy Khê, Hà Nội ngày nay). Chính giữa thờ Lê Quýnh (thuỵ là Trung Nghị), bên tả thờ 11 vị, bên trái thờ 11 vị, phía đông thờ 5, phía tây thờ 5. Như vậy tất cả gồm 33 người, đều được gọi là “Cố Lê tiết nghĩa thần” (các bầy tôi tiết nghĩa đời Lê) và ngôi đền cũng đề là “Cố Lê tiết nghĩa từ” (đền thờ các bậc tiết nghĩa đời Lê).
Theo chúng tôi, Lê Quýnh và một số “tiết nghĩa” nói trên chỉ đáng khen mỗi việc kiên quyết không gọt đầu gióc tóc như người Thanh, dù bị tù đày, đe dọa, mua chuộc thế nào, chứ hành động bán nước là không thể tha thứ. Mặt khác, tình cảnh của họ cũng như vua Lê những ngày sống lưu vong và bị giam cầm trên đất Trung Quốc cũng có phần đáng thương. Nhận định về Bắc hành tùng ký, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na viết: “Tác giả đã ghi lại tâm trạng đau khổ, uất ức, tủi nhục của mình nói riêng, của vua tôi nhà Lê nói chung trong những ngày sống trên đất Trung Hoa. Tác phẩm như một tấm gương phản tỉnh những ai có ảo tưởng “phục quốc” bằng con đường dựa vào người nước ngoài”[ii].
Đ.T.T

[i] Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm tuy viết theo hình thức tiểu thuyết chương hồi nhưng thực chất là một ký sự lịch sử ghi chép người thật việc thật.
[ii] Nguyễn Đăng Na: Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Nxb Giáo dục, 2001.

LÊ CHIÊU THỐNG VÀ SỐ PHẬN BI THẢM

“Nhà vua bị người ta lừa gạt, bị giám buộc ở quê người đất khách, đến nỗi lo buồn phẫn uất, ôm hận mà chết, thân dẫu chết, nhưng tâm không chết, kể cũng đáng thương! Vậy nên truy đặt tên thụy là Mẫn Đế" - “Cương mục” – Chính sử Nguyễn Triều.

(Lê Chiêu Thống hội kiến Tôn Sỹ Nghị tại thành Thăng Long - tranh mô tả)
Người Việt Nam, lớn bé, già trẻ đều đường hoàng đĩnh đạc mà rủa xả Lê Chiêu Thống bán nước cầu vinh. Cụm từ Lê Chiêu Thống được mặc định là kẻ bán nước, niềm xỉ nhục của quốc dân, là kẻ đáng bị nguyền rủa đời đời.
Nhân thế đóng đinh Lê Chiêu Thống cùng lời sỉ vả: “kẻ cõng rắn cắn gà nhà”.
Trong các vị Đế Vương nước Việt, chưa người nào chịu khổ nạn và phải hứng chịu những nguyền rủa dữ dội đến như Lê Chiêu Thống.
Vậy Lê Chiêu Thống là ai? Vị hoàng đế này có đáng phải chịu kiếp nạn đến hàng trăm năm như vậy?
Thiếu thời chịu nạn cùng cha
Có lẽ trong khắp các vị Đế vương nước Việt chưa có vị nào mà cả cuộc đời chịu nhiều đau khổ, đọa đày như Lê Chiêu Thống. Đến chết rồi, tiếng nhơ còn khôn rửa để cho con cháu mấy trăm năm xỉa xói không yên.
Lê Chiêu Thống tên thật là Lê Duy Khiêm, con trai trưởng của Hoàng Thái Tử Lê Duy Vĩ.
Lê Duy Vĩ, tướng mạo đường hoàng, văn vũ toàn bị, được sỹ dân trong nước tin yêu, kính ngưỡng. Theo đúng thông lệ thì Vĩ sẽ đường hoàng kế ngôi hoàng đế Cảnh Hưng trở thành người trị vị quốc gia Đại Việt.
Nhưng vì hiềm khích nhỏ nhoi với Trịnh Sâm mà vị thái tử này bị vướng vào tội danh nhơ nhớp: Thông dâm với cung nữ của vua cha – Tức là tội loạn luân, rồi bị hạ ngục (1769). Lê Duy Khiêm mới ba tuổi đã ngồi tù cùng cha.
Tháng 12 năm 1771, Trịnh Sâm lên ngôi Chúa – tức là Tĩnh Đô Vương đã sát hại Lê Duy Vỹ, khi đó Khiêm mới năm hay sáu tuổi và tiếp tục ngồi tù thêm mười năm nữa.
Năm 1782, Chúa Trịnh Sâm chết, binh sỹ làm biến loạn, phế bỏ thái tử Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngai Chúa - Tức là Án Đô Vương, đồng thời rước Lê Duy Khiêm cùng mẹ ra khỏi nhà ngục, khuông phù về lại chính thống.
Khi đó Lê Duy Khiêm mới mười sáu tuổi, rất có phong độ của Lê Duy Vỹ khi xưa, quân sỹ đều hớn hởn cho rằng: “Thực đáng làm vua”. Chắc hẳn trong quãng thời mười mấy năm chịu nạn cùng cha, chịu đọa đày trong nhà ngục của chúa Trịnh hoàng tự tôn Lê Duy Khiêm đã hun đúc chí hướng nhất thống thiên hạ, quyết tâm giữ gìn cơ nghiệp Lê gia, cũng như lòng uất hờn với Phủ Chúa.
Nhất thống chí – Và cái chết lưu vong.
Nạn kiêu binh, đem đến họa khôn lường cho phủ chúa Trịnh, đem đến cái phúc cho Lê Duy Kỳ, nhưng rồi đó lại đẩy vị Hoàng tự tôn đến những tai họa khôn lường.
Lê Duy Khiêm – tức Kỳ lên ngôi hoàng đế từ cuối tháng 7 (âm) năm 1786, năm sau thì lấy niên hiệu là Chiêu Thống giữa bối cảnh tan nát của Bắc Hà: Lê bại, Trịnh vong, Tây Sơn náo loạn kinh thành. Chức phận của vị hoàng đế trẻ là phải bảo tồn, tông miếu, xã tắc, gia nghiệp mà tổ tông truyền lại.
Tức là phải chống lại những tử thù của mình mà Tây Sơn Nguyễn Huệ là nguy hiểm nhất. Chỉ có Nguyễn Tây Sơn mới có đủ sức mạnh để đe dọa đến sự tồn vong Hoàng tộc Lê gia, sự bình yên của đất Bắc Hà văn hiến.
Chúng ta lầm tưởng rằng quân Tây Sơn đại diện cho sự tiến bộ cho khởi nghĩa nông dân và ý chí thống nhất quốc gia. Nhưng người Bắc Hà thời đó không nghĩ vậy, Tây Sơn – Nguyễn Huệ đối với họ chỉ là đám giặc cướp, phường man mọi xâm lược.
Tức là giặc Lông đỏ.
Việc “Phù Lê diệt Trịnh” của Nguyễn Huệ được nhân sỹ Bắc Hà nhìn nhận là một chiêu bài của quân xâm lược.
Đại Việt đã chia hai đàng Trong và Ngoài suốt mấy trăm năm. Trong thực tế đó là hai quốc gia độc lập. Tây Sơn là đám giặc phát sinh từ miền rừng rú Bình Định (tức Tây Sơn thượng đạo) không thể nào so sánh với Lê gia hoàng tộc những người đã trị vì ở Bắc Hà bốn trăm năm, tổ tông lại có công lớn đánh bại giặc Minh, khôi phục quốc thống.
Bản thân Nguyễn Huệ cũng nhận thức rất rõ vấn đề này khi nói với Nguyễn Hữu Chỉnh đại ý: nay mình ra đánh một nước mấy trăm năm, tài gì người ta không nghi ngại.
Cục diện Đại Việt những năm 1786 tới 1802 chính là Thái đến cùng thì phải Bĩ, những mảnh vỡ được bung ra. Cơ hội thống nhất giang sơn, thống trị toàn cõi Việt Nam được mở ra cho toàn bộ những nhân tố đã tham gia vào cuộc chơi cơn Bĩ cực.
Người có căn cơ, thâm hậu và bền chặt hơn sẽ là người có được chiến thắng chung cuộc, tức là Thiên hỏa đồng nhân vậy.
Lê Chiêu Thống liên tục bị dồn ép bởi đủ các thế lực. Bản thân vị vua này dù có không ít trung thần nghĩa sỹ phù trợ. Nhưng vì không đủ tài thao lược để khống chế cục diện, rốt cục ông bị Tây Sơn – Nguyễn Huệ đả bại phải lưu vong cầu viện ngoại quốc.
Đó không khác gì việc việc nhà của anh bị giặc cướp vào đánh, anh không chống giữ nổi, ắt phải đi cầu đến người ngoài. Lê Chiêu Thống nương nhờ sự can thiệp của cường quốc là nhằm bảo vệ ngôi vị chính tôn hợp pháp của mình.
Đó không phải là hành động bán nước.
Lịch sử đã chứng minh không phải mình Lê Chiêu Thống mượn đến con đường cầu ngoại viện: Trần triều đổ, một số thân sỹ đã sang cầu viện nhà Minh; Gia Long từng viện quân Xiêm; Phan Bội Châu xướng Đông Du; Hồ Chí Minh hướng tới luận thuyết Mác Lê rồi cướp chính quyền hồi tháng 8/1945, bắt tay với Mao Trạch Đông để đánh Pháp rồi sau là chế độ Sài Gòn cùng người Mỹ.
Không thể nói các vị đó bán nước cầu vinh.
Ngay trong thời hiện đại, bản thân các cường quốc cũng đã nhiều lần sử dụng vũ lực danh chính ngôn thuận bảo vệ một chính thể hợp pháp hợp hiến.
Mưu nhất thống không thành – không bảo tồn được gia nghiệp, không bảo vệ nổi con dân, Lê Chiêu Thống chết đau đớn ở xứ người, để lại trái tim nóng đỏ không bao giờ vỡ nát.
Bọn bầy tôi như Trần Công Xán tử nạn trên biển Nghệ An; Trần Danh Án trước khi chết còn đinh chắc: “Người sau bên mộ giơ tay trỏ/Tiến sỹ đời Lê cũ, họ Trần”; Trần Quang Châu, Lê Ban là võ tướng, Lê Duy Chi là em trai đều chết vì nước Đại Việt nhà Lê; đám bầy tôi tòng vong như Lê Quý khẳng khái nói với Thanh Càn Long: “Lũ chúng tôi, đầu có thể chặt, tóc không thể gọt, da có thể lột, y phục không thể đổi”.
Những người đó đâu phải không có trí khôn? Đâu phải là không biết nghĩ? Cớ gì sống thác sinh tử cùng một ông vua "bán nước cầu vinh"?
Đó là vì họ trung quân tin chắc vào lý tưởng của mình mà minh định Tây Sơn – Nguyễn Huệ là đám giặc cướp vậy.
Cái đáng trách của vị hoàng đế đầy khổ ải Lê Chiêu Thống chẳng qua là ở việc, trót khúm núm trước Tôn Sỹ Nghị và thay y phục trên xứ người.
Âu đó cũng là việc chẳng đành, thời thế buộc phải vậy.
Không thể một sớm một chiều gỡ bỏ định kiến trăm năm. Nhưng khi xem xét đánh giá về một nhân vật lịch sử, điều chúng ta cần làm là gạt bỏ những thiên kiến chủ quan của mình, sử dụng sự trong sáng và óc tư duy để soi rọi!
Sông Hàn: Ngày mồng 7 tết Nhâm Thìn 2012; cũng là phúc đáp với bài http://xuandienhannom.blogspot.com/2012/01/so-phan-le-chieu-thong-va-oan-tong-vong.html cùng các coment bên nhà Tiến sỹ Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện.
Vì anh có còm măng bên đấy được đéo đâu? Biên mẹ thành bài cho hoành, sợ đéo!!!

Nguồn: Hantimes


Tìm kiếm Blog này